Thành viên:Đặng Ngọc Ánh 1997/Nháp
Miracle in Cell No. 7 sửa
Món quà ở phòng giam số 7
Miracle in Cell No. 7 (Hangul: 7번방의 선물; RR: 7beonbangui Seonmul; lit. "A Gift from Room 7") is a 2013 South Korean film starring Ryu Seung-ryong, Kal So-won and Park Shin-hye. The film is a heartwarming comedy and family melodrama about a mentally challenged man wrongfully imprisoned for murder, who builds friendships with the hardened criminals in his cell, and in return they help him see his daughter again by smuggling her into the prison.[4][5][6] The film's early working title was December 23 (Hangul: 12월 23일).[7][8] |
Tiếng Hàn: 7번방의 선물
Tiếng Hán: 7番房의 膳物 Đã sửa đổi: Chilbeonbangui Romanization: Seonmul McCune–Reischauer:Ch‘ilpŏnbang ŭi Sŏnmull Đạo diễn: Lee Hwan-kyung Sản xuất: Kim Min-ki Lee Sang-hun Kịch bản: Lee Hwan-kyung Yu Young-a Kim Hwang-sung Kim Young-seok Diễn viên: Ryu Seung-ryong Kal So-won Park Shin-hye Âm nhạc: Lee Dong-jun Quay phim: Kang Seung-gi Chỉnh sửa: Choi Jae-geun Kim So-yeon Công ty sản xuất: Fineworks/CL Entertainment Phân phối bởi: Next Entertainment World Ngày phát hành: 23/1/2013 Thời lượng phát sóng: 127 phút Quốc gia: Hàn Quốc Ngôn ngữ: Hàn Quốc Doanh thu phòng vé: 80,3 triệu đô la Mỹ. Điều kỳ diệu từ phóng giam số 7 (Tiếng Hàn: 7 번방 의 선물; RR: 7beonbangui Seonmul; lit. "Một món quà từ phòng giam số 7") là một bộ phim Hàn Quốc năm 2013 với sự tham gia của Ryu Seung-ryong, Kal So-won và Park Shin-hye. Bộ phim là một câu chuyện ấm áp dành cho gia đình, kể về một người đàn ông tâm thần không ổn định bị kết tội oan là sát nhân và phải ở tù, anh ta đã xây dựng tình bạn với những tên tội phạm vô cảm trong phòng giam của ông, và ngược lại họ giúp ông gặp lại con gái mình bằng cách lén lút đưa cô bé vào tù. Tựa đề làm việc ban đầu của bộ phim là 23 tháng 12 (Tiếng Hàn: 12 월 23 일) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Contents sửa· 1Plot · 2Cast · 3Box office · 4Awards and nominations · 5Remake · 6References · 7External links |
Nội dung:
1. Cốt truyện 2. Diễn viên 3. Doanh thu phòng vé 4. Giải thưởng và đề cử 5. Tái bản 6. Trích dẫn 7. Liên kết phụ | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Plot sửaLee Yong-go is a mentally impaired father with the intellect of a six-year-old, who lives in a run-down house along with his daughter Ye-seung. One day, he gets into a physical altercation with the police commissioner, who has just purchased the last Sailor Moonbackpack for his daughter, a gift Yong-go was saving up to buy for Ye-seung. Soon after, the police commissioner's daughter dies in a freak accident, in which she slips on ice and suffers a fatal blow to the back of her head while she is taking Yong-go to another store that sells the same backpack. When he tries to resuscitate her, a woman witnesses him and mistakes him to be molesting her. Yong-go is falsely accused of the abduction, murder, and rape of a minor. The police quickly take advantage of his disability and force him to admit to the crimes, while ignoring exonerating evidence. Yong-go is imprisoned and assigned to Cell No. 7, the harshest cell in a maximum security prison. At first, the other men in the cell, led by gang leader So Yang-ho, do not take kindly to Yong-go after reading in his file that he murdered and molested a child. However, when Yong-go saves Yang-ho from being fatally stabbed by a rival gang leader, Yang-ho repays the favor by smuggling Ye-seung into Cell No. 7. The Cell No. 7 inmates slowly befriend Yong-go and believe that he is a good man who just happened to be in the wrong place at the wrong time. They help Yong-go rehearse his trial. Eventually, even the head prison warden, Jang Min-hwan, who is initially harsh to Yong-go but softens up when the latter saves him from an arson attack, realizes that Yong-go is merely cornered into admitting a false guilt. He takes custody of Ye-seung and allows her to visit her father every afternoon. However, the police commissioner threatens Yong-go with Ye-seung's safety if he does not confess his "crime" during his trial and earn the capital punishment. He ultimately chooses to sacrifice himself by giving in, receiving the execution date of December 23, which coincides with Ye-seung's birthday. Before the date, Yong-go's fellow inmates work on a hot air balloon that Yong-go and Ye-seung board to watch their final sunset together. Years after Yong-go's execution, Ye-seung, who has been formally adopted by Min-hwan, has become a lawyer. She gathers her father's former inmates, all of whom have been released, to stand witness for Yong-go's ultimately successful retrial, ending in his acquittal. She visits Cell No. 7 and reminisces about their hot air balloon trip. |
Cốt truyện:
Lee Yong-go là một người cha bị suy yếu về tinh thần với trí tuệ của một đứa trẻ sáu tuổi, sống trong một ngôi nhà xuống cấp cùng với con gái Ye-seung. Một ngày nọ, anh gặp rắc rối với một ủy viên cảnh sát, người vừa mới mua chiếc cặp hình thủy thủ mặt trăng cuối cùng cho con gái mình. Đó là món quà mà Yong-go đã cố tiết kiệm tiền để mua được cho Ye-seung. Ngay sau đó, con gái của ủy viên cảnh sát chết trong một tai nạn kỳ lạ, trong đó cô bé trượt trên băng và bị một đòn chí tử ở phía sau đầu trong khi cô đang đưa Yong-go đi đến một cửa hàng khác bán chiếc ba lô tương tự. Khi anh đang cố gắng cứu cô bé, một người phụ nữ chứng kiến và hiểu lầm anh đang quấy rối cô bé. Yong-go bị cáo buộc oan về việc bắt cóc, giết người và hãm hiếp trẻ vị thành niên. Cảnh sát nhanh chóng lợi dụng tinh trạng khuyết tật của anh và buộc anh phải thừa nhận tội ác, trong khi bỏ qua bằng chứng miễn tội cho anh. Yong-go bị giam giữ và chuyển vào phòng giam số 7, phòng giam khắc nghiệt nhất trong một nhà tù an ninh tối đa. Lúc đầu, những người đàn ông khác trong phòng giam, do So Yang-ho lãnh đạo, đã đối xử tệ với Yong-go sau khi đọc trong hồ sơ của anh vì nghĩ rằng anh đã sát hại và quấy rối một đứa trẻ. Tuy nhiên, khi Yong-go cứu Yang-ho khỏi cuộc tấn công bởi một băng nhóm đối thủ, Yang-ho trả ơn bằng cách lén gửi Ye-seung vào phòng giam số 7. Các tù nhân số 7 từ từ kết bạn với Yong-go và tin rằng rằng anh ta là một người đàn ông tốt, chỉ là anh đã ở sai chỗ và sai thời điểm. Họ giúp Yong-go luyện tập cho phiên tòa của anh. Cuối cùng ngay cả người đứng đầu nhà tù, Jang Min-hwan, người ban đầu rất khắc nghiệt với Yong-go cũng dịu đi khi sau khi được Yong-go cứu thoát khỏi một trận hỏa hoạn, nhận ra rằng Yong-go chỉ đơn thuần là bị dồn ép phải nhận tội. Anh ta nhận chăm sóc cho Ye-seung và cho phép cô ấy đến thăm cha cô mỗi buổi chiều. Tuy nhiên, ủy viên cảnh sát đe dọa Yong-go rằng Ye-seung sẽ không được an toàn nếu anh không thú nhận "tội lỗi" của mình trong phiên tòa và nhận án tử hình. Cuối cùng anh ta đã hy sinh bản thân, lãnh án tử hình vào ngày 23 tháng 12, trùng vào ngày sinh nhật của Ye-seung. Trước ngày đó, những người bạn trong tù của Yong-go đã làm một khinh khí cầu để Yong-go và Ye-seung có thể ngắm cảnh hoàng hôn cùng nhau lần cuối cùng. Nhiều năm sau khi án tử của Yong-go được thực hiện, Ye-seung,người được Min-hwan nhận nuôi, đã trở thành một luật sư. Cô tập hợp những người bạn cũ ở trong tù của cha mình, tất cả những người đó đã được thả, để làm chứng cho cuộc tái thẩm cuối cùng. Cuộc tái thẩm đó thành công và Yong-go được xóa tội. Sau đó cô đến thăm phòng giam số 7 và hồi tưởng về chuyến đi trên khinh khí cầu của họ. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cast sửa· Ryu Seung-ryong as Lee Yong-gu · Kal So-won as Ye-sung (Child) · Park Shin-hye as Ye-sung (Adult) · Oh Dal-su as So Yang-ho · Jung Jin-young as Jang Min-hwan · Park Won-sang as Choi Chun-ho · Kim Jung-tae as Kang Man-beom · Jung Man-sik as Shin Bong-shik · Kim Ki-cheon as Old man Da-do |
Diễn viên:
• Ryu Seung-ryong vai Lee Yong-gu • Kal So-won vai Ye-sung (Con) • Park Shin-hye vai Ye-sung (Người lớn) • Oh Dal-su vai So Yang-ho • Jung Jin-young vai Jang Min-hwan • Park Won-hát vai Choi Chun-ho Kim Jung-tae vai Kang Man-beom • Jung Man-sik vai Shin Bong-shik • Kim Ki-cheon vai ông già Da-do | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Box office sửaThe film took 4.6 million admissions (the equivalent of more than US$30 million) in its first two weeks due to strong word of mouth. Despite the release of The Berlin File, it drew in 15% more audience members on its third week, with seat booking at 75.8%. 32 days after its release, it became only the eighth film in Korean cinema history to break the 10 million mark in ticket sales. This was especially notable since Miracle in Cell No. 7 had no big stars, and a modest budget with a break-even point of 1.7 million admissions, making its eventual profit the highest among the films that reached 10 million. The film exceeded 12 million viewers 46 days after its release. On March 15, 2013, 52 days after its release, ticket sales reached 12.32 million, making it the fifth highest grossing Korean film of all time. Analysts say among the reasons for its success was the long lunar new year holiday and families going to see the film in groups. The film proved to be especially popular among middle-aged and elderly Koreans. |
DOANH THU PHÒNG VÉ
Bộ phim đã thu hút 4,6 triệu người (tương đương hơn 30 triệu đô la Mỹ) trong hai tuần đầu tiên do sức mạnh của truyền miệng. Bất chấp việc công chiếu của The Berlin File, bộ phim đã thu hút thêm 15% khán giả vào tuần thứ ba công chiếu, với đặt chỗ 75,8%. 32 ngày sau khi công chiếu, nó đã trở thành bộ phim thứ tám trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc phá vỡ mốc 10 triệu trong doanh số bán vé. Điều này đặc biệt đáng chú ý vì Miracle in Cell No. 7 không có ngôi sao lớn và ngân sách khiêm tốn với 1,7 triệu lượt truy cập, khiến lợi nhuận cuối cùng cao nhất trong số các phim đạt 10 triệu. Bộ phim đã vượt quá 12 triệu người xem sau 46 ngày công chiếu. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2013, 52 ngày sau khi công chiếu, doanh số bán vé đạt 12,32 triệu, khiến nó trở thành bộ phim Hàn Quốc có doanh thu cao thứ năm mọi thời đại. Các nhà phân tích cho rằng trong số những lý do cho sự thành công của nó là kỳ nghỉ năm mới âm lịch và các gia đình sẽ xem phim theo nhóm. Bộ phim được chứng minh là đặc biệt phổ biến trong số những người Hàn Quốc ở độ tuổi trung niên và cao tuổi. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Remake (3) sửaThe film was adapted into a Kannada movie in 2017 titled Pushpaka Vimana.[25] Kross Pictures to produce the official Hindi remake of the movie in collaboration with Indian Film Studios and will directed by Umesh Shukla [26] |
Phiên bản làm lại:
Bộ phim đã được chuyển thể thành phim Kannada vào năm 2017 dưới tựa đề Pushpaka Vimana. Kross Pictures đã hợp tác với hãng phim Ấn Độ để làm lại bộ phim bằng tiếng Hindi và sẽ được đạo diễn bởi Umesh Shukla | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
References sửa1. . Retrieved 2013-03-10 2. . Retrieved 2013-02-01 3. . Retrieved 2013-02-09 4. . Retrieved 2012-12-28 5. . Retrieved 2013-01-21 6. . Retrieved 2013-02-26 7. . Retrieved 2012-11-18 8. . Retrieved 2012-11-18 9. . Retrieved 2013-02-05 10. . Retrieved 2013-02-06 11. . Retrieved 2013-02-10 12. . Retrieved 2013-02-25 13. . Retrieved 2013-02-25 14. . Retrieved 2013-02-20 15. . Retrieved 2013-02-26 16. . Retrieved 2013-03-04 17. . Retrieved 2013-03-12 18. . Retrieved 2013-03-12 19. . Retrieved 2013-03-20 20. . Retrieved 2013-03-20 21. . Retrieved 2013-03-20 22. . Retrieved 2013-03-20 23. . Retrieved 2013-04-11[permanent dead link] 24. . Retrieved 2013-05-14 25. "Will this Kannada film win the Oscars this year?". timesofindia.indiatimes.com 26. https://twitter.com/taran_adarsh/status/869429099764174848 |
Trích dẫn:
1. “Doanh thu khổng lồ của Điều kì diệu ở phòng giam số 7”. Doanh thu phòng vé Mojo. Truy cập ngày 10/3/2013 2. Sunwoo, Carla (ngày 1 tháng 2 năm 2013). “Nam và nữ diễn viên hoàn thành vài trò của mình.”. Tạp chí hằng ngày JoongAng Hàn Quốc. Truy cập ngày 01/02/2013. 3. An Sohyoun (ngày 8 tháng 2, 2013) “Cuộc phỏng vấn: Ryu Seung Ryong chia sẻ được vợ tôn trọng sau Món quà từ phòng giam số 7”. enewsWorld. CJ E&M. Trích dẫn ngày 09/02/2013. 4. Park Eun Jee (28/12/2012). “Hai bộ phim xúc động dành cho người đang cảm thấy gục ngã”. Tạp chí JoongAng Hàn Quốc. Sưu tập lại từ bản gốc ngày 5/2/2013. Trích dẫn ngày 28/12/2012. 5. Jang Sung Ran (18/01/2013). “ĐIỀU KÌ DIỆU Ở PHÒNG GIAM SỐ 7 ra rạp với 4 ngôn ngữ.” Hội đồng phim Hàn Quốc. Trích dẫn ngày 21/01/2013. 6. Conran Pierce (30/01/2013). “Đi sâu phân tích: Điều kì diệu ở phòng giam số 7”. Hội đồng phim Hàn Quốc. Trích dẫn ngày 26/02/2013. 7. Ho Stewart (01/06/2012). “Sự trở lại của nàng thơ Park Shin Hye sau 2 năm vắng bóng trên màn ảnh rộng”. enewsWorld CJ E&M. trích dẫn ngày 28/01/2012. 8. Lee Tae Ho (18/10/2012). “Một kết thúc mỹ mãn cho phim mới của Park Shin Hye và Ryo Seung Ryong. 10Asia. Trích dẫn ngày 18/11/2012. 9. Hong Grace (ngày 18/10/2012). “Món quà ở phòng số 7 vượt 4 triệu lượt xem chỉ trong 12 ngày”. enewsWorld. CJ E&M. Trích dẫn ngày 05/02/2013. 10. Kim Hyun Min (04/02/2013). “Hồ sơ Berlin đạt vị trí số 1 ngày trong tuần đầu tiên khởi chiếu; Điều kì diệu ở phòn giam số 7 cũng không kém cạnh.” Hội đồng phim hàn Quốc. Trích dẫn ngày 10/02/2013. 11. Paquet, Darcy (7 - 02 - 2013). Tạp chí Box Office: Từ 24/01 đến 06/02/2013. Hội đồng Điện ảnh Hàn Quốc. Trích dẫn ngày 10-02-2013. 12. "Sự kì diệu ở phòng giam số 17". Thu hút hơn 10 triệu lượt xem. Triều Tiên nhật báo ngày 25/02/2013. Trích dẫn ngày 25-02-2013 13. Moon, Gwang-lip (25 - 02 - 2013). "Ryu Seung-ryong nằm trong top những diễn hàng đầu". Nhật báo Korean JoongAng Trích dẫn ngày 25-02-2013. 14. '"Điều kì diệu ở phòng giam số 7" đạt 7 triệu lượt xem'. Hãng tin Yonhap. 18-02-2013. Trích dẫn ngày 20-02-2013. 15. "Điều kì diệu ở phòng giam số 7" vượt qua con số 10 triệu lượt theo dõi. Hội đồng Điện ảnh Hàn Quốc. Trích dẫn ngày 26-02-2013. 16. Ji, Yong-jin (26 - 02 - 2013). "Khởi đầu hoàn hảo, Tương lai tươi sáng" Hội đồng Điện ảnh Hàn Quốc. Trích dẫn ngày 04 - 03 -2013. 17. Lee, Eun-sun (6 - 03 - 2013). "Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7" đứng thứ 5 top những bộ phim Hàn Quốc nổi tiếng. Hội đồng Điện ảnh Hàn Quốc. Trích dẫn ngày 12 - 03 -2013. 18. "Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7" vượt mốc 12 triệu lượt xem. Nhật báo The Korea Herald. 11-03-2013. Trích dẫn ngày 12-03-2013. 19. "Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7" phim được xem nhiều thứ 3 ở Hàn Quốc'. Hãng tin Yonhap. 15-03-2013. Trích dẫn ngày 20-03-2013. 20. Ji, Yong-jin (19 - 03 - 2013). '"Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7" vượt qua "Hoàng Đế Giả Mạo" trở thành phim thành công thứ 3 của Hàn Quốc. Hội đồng Điện ảnh Hàn Quốc. Trích dẫn ngày 20 - 03 -2013. 21. Ji, Yong-jin (ngày 19 tháng 3 năm 2013). "Điều kì diệu trong phòng giam số 7” Vượt qua MASQUERADE để trở thành phim Hàn Quốc thành công thứ ba". Hội đồng phim Hàn Quốc. Truy cập ngày 20-03-2013. 22. Kim, Nemo (19 tháng 3 năm 2013). "Điều kì diệu trong phòng giam số 7” là bộ phim nổi tiếng thứ 3 của Hàn Quốc mọi thời đại". 10Asia. Truy cập ngày 20-03-2013. 23. Hicap, Jonathan M. (ngày 5 tháng 4 năm 2013). "Giải Nghệ thuật Baeksang lần thứ 49 đã tiết lộ". Bản tin Manila. Truy cập ngày 11-04-2013. [Liên kết vĩnh viễn chết] 24. Ji, Yong-jin (ngày 13 tháng 5 năm 2013). "RYU Seung-ryong thắng giải thưởng lớn tại giải nghệ thuật Baeksang". Hội đồng phim Hàn Quốc. Truy cập ngày 14-05-2013. 25. "Liệu phim Kannada này có giành giải Oscar năm nay không?". timesofindia.indiatimes.com 26.https://twitter.com/taran_adarsh/status/869429099764174848 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
External links[edit] sửa· Official website (in Korean) · Miracle in Cell No. 7 at HanCinema · Miracle in Cell No. 7 at the Korean Movie Database · Miracle in Cell No. 7 on IMDb |
Liên kết ngoài
• Trang web chính thức (tiếng Hàn) • Miracle in Cell No. 7 tại HanCinema • Miracle in Cell No. 7 tại Cơ sở dữ liệu phim Hàn Quốc • Miracle in Cell No. 7 trên IMDb |
Awards and nominations sửa
Award | Category | Recipient(s) | Outcome |
49th Baeksang Arts Awards[23][24] | Best Film | Miracle in Cell No. 7 | Nominated |
Best Actor | Ryu Seung-ryong | Nominated | |
Best Supporting Actor | Oh Dal-su | Nominated | |
Best Supporting Actress | Park Shin-hye | Nominated | |
Best New Actress | Kal So-won | Nominated | |
Best Screenplay | Lee Hwan-kyung, Kim Hwang-sung, Kim Young-seok | Nominated | |
Grand Prize for Film | Ryu Seung-ryong | Won | |
Most Popular Actress | Park Shin-hye | Won | |
7th Mnet 20's Choice Awards | 20's Movie Star, Male | Ryu Seung-ryong | Won |
20's Movie Star, Female | Park Shin-hye | Nominated | |
22nd Buil Film Awards | Best New Actress | Kal So-won | Nominated |
50th Grand Bell Awards | Best Actor | Ryu Seung-ryong | Won |
Best Screenplay | Lee Hwan-kyung | Won | |
Best Planning | Lee Hwan-kyung, Kim Min-ki, Kim Min-guk | Won | |
Special Jury Prize | Kal So-won | Won | |
Best Director | Lee Hwan-kyung | Nominated | |
Best Actress | Kal So-won | Nominated | |
Best Supporting Actor | Oh Dal-su | Nominated | |
Best New Actress | Kal So-won | Nominated | |
Best Cinematography | Kang Seung-gi | Nominated | |
Best Editing | Choi Jae-geun, Kim So-yeon | Nominated | |
Best Art Direction | Lee Hoo-gyoung | Nominated | |
Best Lighting | Kang Sung-hoon | Nominated | |
Best Costume Design | Kim Na-yeon | Nominated | |
Best Music | Lee Dong-jun | Nominated | |
34th Blue Dragon Film Awards | Most Popular Film | Miracle in Cell No. 7 | Won |
Best Actor | Ryu Seung-ryong | Nominated | |
Best Screenplay | Lee Hwan-kyung | Nominated | |
Best Music | Lee Dong-jun | Nominated | |
21st Korean Culture and Entertainment Awards | Grand Prize in Film | Ryu Seung-ryong | Won |
Top Excellence Award, Actor in Film | Oh Dal-su | Won | |
2014 34th Golden Cinema Festival | Best Supporting Actor | Oh Dal-su | Won |
33rd Korean Association of Film Critics Awards | Best Supporting Actress | Park Shin-hye | Won |
Giải thưởng | Hạng mục | Ứng cử viên | Kết quả |
Giải thưởng nghệ thuật Beaksang lần thứ 49 | Phim hay nhất | Điều kì diệu ở phòng giam số 7 | Được đề cử |
Diễn viên xuất sắc nhất | Ryu Seung-ryong | Được đề cử | |
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Oh Dal-su | Được đề cử | |
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Park Shin-hye | Được đề cử | |
Nữ diên viên mới xuất sắc nhất | Kal So-won | Được đề cử | |
Kịch bản xuất sắc | Lee Hwan-kyung
Kim Hwang-sung Kim Young-seok |
Được đề cử | |
Giải Deasang ( giải thưởng danh giá nhất) | Ryu Seung-ryong | Thắng giải | |
Nữ diễn viên được yêu thích nhất | Park Shin-hye | Thắng giải | |
Giải Bình chọn Mnet 20’s lần thứ 7 | 20’s Ngôi sao điện ảnh – Nam | Ryu Seung-ryong | Thắng giải |
20’s Ngôi sao điện ảnh – Nữ | Park Shin-hye | Được đề cử | |
Giải Điện ảnh Buil lần thứ 22 | Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất | Kal So-won | Được đề cử |
Giải Đại Chung lần thứ 50 | Diễn viên xuất sắc nhất | Ryu Seung-ryong | Thắng giải |
Kịch bản phim hay nhất | Lee Hwan-kyung | Thắng giải | |
Đội ngũ xuất sắc nhất | Lee Hwan-kyun
Kim Min-ki Kim Min-guk |
Thắng giải | |
Giải thưởng do ban giám khảo bình chọn | Kal So-won | Thắng giải | |
Đạo diễn xuất sắc nhất | Lee Hwan-kyung | Được đề cử | |
Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Kal So-won | Được đề cử | |
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Oh Dal-su | Được đề cử | |
Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất | Kal So-won | Được đề cử | |
Kĩ thuật xuất sắc nhất | Kang Seung-gi | Được đề cử | |
Biên tập xuất sắc nhất | Choi Jae-geun
Kim So-yeon |
Được đề cử | |
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | Lee Hoo-gyoung | Được đề cử | |
Đạo diễn ánh sáng xuất sắc nhất | Kang Sung-hoon | Được đề cử | |
Thiết kế trang phục xuất sắc nhất | Kim Na-yeon | Được đề cử | |
Nhạc phim xuất sắc nhất | Lee Dong-jun | Được đề cử | |
Giải Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 34 | Bộ phim được yêu thích nhất | Điều kì diệu ở phòng giam số 7 | Thắng giải |
Diễn viên xuất sắc nhất | Ryu Seung-ryong | Được đề cử | |
Kịch bản xuất sắc nhất | Lee Hwan-kyung | Được đề cử | |
Nhạc phim xuất sắc nhất | Lee Dong-jun | Được đề cử | |
Giải thưởng văn hoá và nghê thuật Hàn Quốc | Giải thưởng danh giá | Ryu Seung-ryong | Thắng giải |
Giải thưởng danh giá, diễn viên xuất sắc nhất | Oh Dal-su | Thắng giải | |
2014 Liên hoan phim vàng lần thứ 34 | Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Oh Dal-su | Thắng giải |
Giải phê bình phim của hiệp hội Hàn Quốc lần thứ 33 | Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Park Shin-hye | Thắng giải |