Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa
thợ may lành nghề
phụ trách bộ phận kiểm hóa các cơ sở may
Tại vị1954 - 1984
Đăng quang2004
Nhiếp chínhHoàng húy Khiềm
Tiền nhiệmHoàng húy Tuyển
Kế nhiệmHoàng Trọng Kiên
Thông tin chung
Sinh1924
Đông Dương thuộc Pháp
Thê thiếpĐỗ thị Xuân 1925
Hậu duệ2 trai 2 gái
Tên đầy đủ
Hoàng thị Thanh Thu 1947
Hoàng Trọng Khánh 1959
Hoàng thị Bích Thảo 1961
Hoàng Trọng Khang 1964
Niên hiệu
Việt Nam dân chủ cộng hòa
Thụy hiệu
Lão Nông Truy Điền
Miếu hiệu
Hán Vũ Đế
Tước hiệuChiến sĩ thi đua
Tước vịPhó chủ tịch nông hội xã
Tên ngaidiễn viên đóng Hán Vũ Đế
Tên Horuskhông rõ
Tên Nebty hai quý bàkhông rõ
Horus Vàngkhông rõ
Hoàng tộchọ Hoàng gốc Mạc
Thân phụHoàng húy Khiêm
Thân mẫuNguyễn thị húy Đảng

Tiểu sử sửa

Thủy tổ của dòng họ Mạc ở Việt Nam là Mạc Ngu vốn có gốc tích ở bên Tàu, cháu nội ông là Mạc Hiển Tích từng làm quan thời nhà Lý. Cháu 5 đời của Mạc Hiển Tích là Trạng Sách Mạc Đĩnh Chi từng đi sứ nhà Nguyên và được công nhận là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên.

Năm 1527, cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi là Mạc Đăng Dung bức ông vua cuối cùng của nhà Lê sơHoàng Đệ Xuân nhường ngôi cho mình lập ra nhà Mạc. Nhà Mạc truyền được 5 thế hệ thị bị lật đổ, cháu 3 đời của Vũ An Đế Mạc Toàn là Mạc húy Thiện tự Phúc Hiền do bị nhà Lê trung hưng truy sát đã đổi sang họ Hoàng, sở dĩ đổi họ như vậy vì giữ nguyên bộ thảo đầu trong chữ Mạc, hơn nữa chữ Hoàng và chữ Mạc na ná nhau để nhắc nhở con cháu không quên nguồn cội.

  1. Thiện sinh 2 trai 1 gái: con trai cả là Bảo
  2. Bảo sinh 3 trai: con trai thứ 2 là Thực
  3. Thực sinh 4 trai: con trai thứ 3 mà Mẫn tự Phúc Nhân
  4. Mẫn sinh 3 trai: con trai trưởng là Khoa
  5. Khoa sinh 4 trai 1 gái: con trai trưởng là Điền
  6. Điền sinh 5 trai 3 gái: con trai thứ 3 là Giám tự Quang Chiêu
  7. Giám sinh 7 trai 3 gái: con trai trưởng là Thuyên (thường gọi cụ Cai)
  8. Thuyên sinh 4 trai 3 gái: con trai trưởng là Độ tự Phúc Khang (thường gọi cụ Chánh Cán)
  9. Độ sinh 5 trai 4 gái: con trai trưởng là Khiêm tự Phúc Nhượng (thường gọi cụ Cựu Khiềm)
  10. Khiêm sinh 3 trai 5 gái: con trai út chính là Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa (tức Thoa)

Tương truyền, lúc sinh ra cha mẹ đặt tên là Hoàng Trọng Khoa, nhưng sau chú ruột là Hoàng húy Chí tra gia phả thấy trùng tên với Thất Đại Tổ Khảo nên gọi chệch là Thoa. Khi lớn lên gia nhập quân đội mới đổi là Hoàng Thành Ân, với ý ân là ân nghĩa, còn tên thật trở thành tên tự.

Những cột mốc quan trọng trong đời sửa

  1. Năm 1924: chào đời
  2. Năm 1936: mẹ già (vợ cả của cha) chết
  3. Năm 1942: cha mất
  4. Năm 1946: kết hôn
  5. Năm 1948: nhập ngũ
  6. Năm 1954: xuất ngũ
  7. Năm 1957: làm việc tại công ty may mặc xuất khẩu
  8. Năm 1960: mẹ qua đời
  9. Năm 1974: di chuyển đến chỗ ở cố định như hiện nay
  10. Năm 1984: về hưu
  11. Năm 2004: có cháu đích tôn
  12. Năm 2014: mừng thọ 90 tuổi

Những giai thoại để đời về Trạng Sách Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346) sửa

Giai thoại ở trong nước sửa

Mạc Đĩnh Chi tự là Tiếu Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh (Hải Dương), nguyên về dòng dõi quan Thượng thư Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý, (Hiển Tích đỗ Trạng nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý, Làm lại bộ Thượng thư)

Tục truyền làng Lũng Động có một thung rừng rậm, cây cối bùm lum lắm giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu lo bắt hiếp. Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn con dao sắc vào rừng, con hầu thói lại ra, bị ông kia chém chết bỏ thây ở đấy. Sáng mai ra xem thì mới đã đùn đất lấp hết, thành một gò mả.

Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng, sinh ra Mạc Đĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu.

Ông cha đến lúc gần mất, dặn lại táng lên trên mả con hầu, vì biết chỗ ấy là chỗ đất kết (ngôi mả đến giờ vẫn còn.)

Mạc Đĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thông minh hơn người, Bây giờ Hoàng tử là Chiêu quốc công mở trường dạy học trò. Đĩnh Chi vào học.

Trời nổi cơn giông. Cơn mưa tai ác ập kéo đến giữa chiều. Từ trong rừng sâu hai mẹ con Mạc Đĩnh Chi vội vàng bó củi để gánh về bán cho nhà hào phú ở Lũng Động theo thường lệ.

Nhưng cổng nhà hào phú đã đóng chặt. Mạc Đĩnh Chi ái ngại nhìn mẹ rồi đặt gánh củi xuống bên đường, đẩy mạnh cánh cổng, nhưng cánh cổng làm bằng gỗ lim tấm, không nhúc nhích.

Mạc Đĩnh Chi boăn khoăn:

- Mình con ở lại chờ ngớt mưa rồi bán. Mẹ về trước đi.

Bà mẹ đứng nép vào bó củi, tránh cơn gió mạnh:

- Lần đầu đi, con biết bán thế nào? Con về nghỉ lấy sức mà học. Đằng nào mẹ cũng phải chờ. Mẹ phải chờ con ạ Bà mẹ nhắc lại giọng thiểu não.

Trong suốt đời mình không bao giờ Mạc Đĩnh Chi quên được cái nhìn buồn bã ấy của mẹ. Gương mặt mẹ lúc ấy như teo lại vì thấm rét, còn vì cả lo lắng nữa.

Chợt nhớ ra nhà hào phú có đứa con cùng học với mình một lớp, Mạc Đĩnh Chi tỏ ra thích thú, lên tiếng gọi bạn. Cuối cùng một nô gia ra mở cổng hai mẹ con Mạc Đĩnh Chi vừa gánh củi vào đến sân, thì một lũ chó, con nào con nấy béo nung núc nhảy xổ vào cắn. Theo bản năng, Mạc Đĩnh Chi vội đặt gánh, rút một thanh củi để chống chọi với đàn chó. Lập tức, từ trên nhà lớn, giọng một đứa trẻ quát:

- Họ nhà khỉ! Động đến con chó nhà tao thì cứ liệu hồn.

Nhận ra tiếng bạn, Mạc Đĩnh Chi vội nói:

- Đánh chó cho tôi với. Mạc Đĩnh Chi đây mà.

Mạc Đĩnh Chi sửng sốt khi nghe thấy bạn sừng sộ:

- Ai bạn với thằng khỉ! Muốn chết bảo ông!

Hai mẹ con Mạc Đĩnh Chi nín nhịn rồi vừa chống cự với đàn chó vừa gánh củi vào dãy nhà ngang. Câu chuyện tưởng đã xong. Nào ngờ khi Mạc Đĩnh Chi vừa định bước lên nhà trên thì lập tức bị ngăn lại. Vẫn giọng thằng bé con nhà hào phú:

- Ai mời mà mày dám vác mặt lên đây, làm bẩn nhà tao.

Bị xúc phạm đến nước ấy, Mạc Đĩnh Chi không nhịn được nữa. Nhìn thẳng vào kẻ đang chặn mình, Mạc Đĩnh Chi nói rành rọt:

- Tao không thèm đến nhà mày. Chỉ vì tao phải bán củi. Ngừng một lát, Mạc Đĩnh Chi nói tiếp, giọng khinh bỉ: Mày quên mất những lúc mày phải van lạy tao, nhờ tao làm hộ bài tập văn cho mày rồi sao?

Không ngờ bị Mạc Đĩnh Chi tố ra sự dốt nát của mình, tên can hào phú bù lu bù loa:

- Trời ơi! Nó dám hỗn hào, dám đến nhà người ta để bắt nạt người ta.

- Cái gì thế? Tên hào phú uể oải rời chiếc sập ngụ sơn sao thiếp vàng, gắt hỏi.

- Thằng Mạc Đĩnh Chi, con nhà bần tiện, bắt nạt con tên hào phú vừa đáp vừa khóc rưng rức như người bị oan thật sự.

Nghe con nói như vậy, tên hào phú nhảy xổ ra hiên. Nhưng, ngay lập tức hắn dừng lại. Hắn đã bắt gặp cậu bé con nhà nghèo khổ này ở đâu nà trông quen thế. Kìa, tướng mạo nó trông thật xấu: Người thì thấp bé, cái trán dô ra, miệng rộng, nước da đen cháy, nhưng đôi mắt lại thật lạ lùng. Hắn chưa thấy cậu bé nào có đôi mắt sáng như thế. Ai nhìn vào đôi mắt ấy cũng sinh lòng nể trọng. Hắn cố bóp óc suy nghĩ. À phải rồi, hắn đã gặp Mạc Đĩnh Chi và nghe cậu bé tự đọc bài thơ của mình trong buổi bình văn ở Lũng Động. Không ai ngờ cậu bé xấu xí ấy lại làm được bài thơ hay đến thế. Và, cũng qua thầy Lũng Động, hắn còn sửng sốt được biết rằng đứa trẻ nổi tiếng thần đồng và có tài học uyên bác mà cả vùng đồn đại bấy lâu nay chính là cậu bé con nhà tiều phu khốn khổ ấy. Bây giờ thì đứa trẻ hắn vừa phục vừa ghét ấy, đang đứng trước mặt hắn, ngay dưới thềm toàn thân rung lên vì rét. Lẫn lộn trong tình cảm vừa phục tài vừa ghen ghét, hắn cố ý lấy giọng đường bệ.

- À, vẫn cái thằng giống khỉ nhiều hơn giống người này. Mày lại dám so đọ tài năng với con cháu vàng bạc của ta à!

Mạc Đĩnh Chi nghiêm trang:

- Thưa ông! Tôi không hề có ý so đọ tài năng với con ông, và cũng không thể so đọ được ở chốn này. Chỉ vì con ông cậy gần nhà...

- Mày dám xách mé ví con tao là chó à tên hào phú cắt ngang câu nói của Mạc Đĩnh Chi, sừng sộ.

Bà mẹ Mạc Đĩnh Chi ngỡ ngàng trước tình huống ấy, vội vàng bước lại, giọng run lên không hẳn vì rét:

- Lạy cụ đoái thương cho tình cảnh mẹ con con. Cháu nó dại mồm dại miệng, cụ tha thứ cho nó, con được nhờ ơn cụ. Con đã gánh củi đến, cụ cho mẹ con con kẻ nghèo này đấu gạo.

Tên hào phú chưa kịp xua tay từ chối, thì cũng rất bất ngờ, hắn nghe thấy Mạc Đĩnh Chi nói với mẹ:

- Mẹ đừng nói thế, coi thường mẹ con mình đi. Con có lỗi gì mà mẹ phải xin. Ông ấy mua thì trả tiền bằng không thì thôi.

Nói rồi, Mạc Đĩnh Chi kéo tay mẹ về gánh củi trở về. Tên hào phú tức lộn ruột, nhưng hắn hoàn toàn bị động trước thái độ cứng rắn và phản ứng nhanh nhạy của Mạc Đĩnh Chi. Đến lúc hắn thấy cần phải trừng trị, bằng cách xua chó cắn chết hai mẹ con kẻ tiều phu, thì Mạc Đĩnh Chi đã đi xa. Hắn quay lại trút giận vào đứa con ngây thộn, vẫn khóc ti tỉ.

- Mày bằng lứa với nó, nhưng mày chỉ đáng xách tráp hầu nó thôi.

Giấc ngủ đã cho Mạc Đĩnh Chi sự bình tĩnh trở lại và những lời khuyên bổ ích. Sau đêm tưởng phải thức trắng vì bực mình, vì đói ấy, Mạc Đĩnh Chi tự nhủ: Phải quên những va vấp như thế nhanh chừng nào tốt chừng ấy. Hơn thế nữa, Mạc Đĩnh Chi sẵn sàng đón đợi những sự thật phũ phàng hơn. Mạc Đĩnh Chi không lạ gì thói đời kẻ giàu vẫn khinh miệt người nghèo. Mà người nghèo ấy lại là mình: Mồ côi cha từ sớm, tài sản không có gì đáng giá ngoài túp lều tranh bên ven rừng và mảnh vườn xơ xác. Chỉ thương mẹ vì mình mà phải chịu bao cực nhục, hết gồng thuê gánh mướn lại lên rừng kiếm củi, chắt chiu từng đồng để nuôi con qua khỏi bao nhiêu lần sài đẹn, ốm ho, bệnh hoạn, giữa bao lời đồn đại lẫn tiếng chê cười. Mẹ đã đơn giản đinh ninh một điều rằng, người ta nghèo khổ vì quá ngu dốt, nếu học được nhiều ắt có ngày thành đạt. Vì vậy, mẹ đã chịu đựng tất cả, hy sinh tất cả để cố nuôi cho con đi học. Biết con học sáng, mẹ rất vui lòng. Và, trong những năm tháng nhọc nhằn, tủi nhục, mẹ vẫn thường ao ước con sẽ có ngày đỗ đạt. Niềm tin ấy đã vực mẹ vượt qua tất cả. Hiểu lòng mẹ nên Mạc Đĩnh Chi càng cố tâm học tập. Vốn là cậu bé có tư chất thông minh lại phải sống trong cảnh mồ côi, bị người đời khinh rẻ, nên Mạc Đĩnh Chi sớm hiểu ý nghĩa cuộc đời. Đối với Mạc Đĩnh Chi, dường như chỉ có học tập, học tập thành tài mới là con đường đưa cậu bé thoát khỏi cảnh nghèo nàn và bị coi khinh. Hơn thế nữa, thời này đây phẩm giá thanh cao của con người cũng từ sự đỗ đạt mà nên. Vì vậy, không mấy lúc Mạc Đĩnh Chi ngơi đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách. Không có đủ sách học, Mạc Đĩnh Chi mượn thầy mượn bạn. Mạc Đĩnh Chi cố học thuộc những cuốn sách quý. Không có tiền mua nến để học, Mạc Đĩnh Chi lấy củi thay thế. Hết củi, Mạc Đĩnh Chi đi kiếm lá rừng.

Nhưng đã đến lúc kho sách của thầy của bạn không đủ đáp ứng nhu cầu của cậu bé. Lấy đâu ra tiền để mua sách? Mạc Đĩnh chi loay hoay mãi mà chưa nghĩ ra. Mạc Đĩnh Chi đi kiếm củi thêm. Và, dù chẳng được bao nhiêu tiền nhưng là cách duy nhất để cậu bé có tiền mua sách. Từ đó, hàng ngày Mạc Đĩnh Chi vừa đi kiếm củi vừa học. Mạc Đĩnh Chi có gầy đi và đen thêm nhưng kiến thức ngày càng được mở mang.

Chỉ còn hai năm nữa mới tới kỳ thi Đình. Tự thấy mình không đủ dạy Mạc Đĩnh Chi, thầy đồ Lũng Động đã khuyên Đĩnh Chi theo học một người bạn mình vốn đã đỗ tam khôi đang ngồi dạy học ở vùng bên. Hôm chia tay, vì thương nhà Mạc Đĩnh Chi nghèo, thầy đồ đưa cho Mạc Đĩnh Chi ít tiền và ân cần căn dặn:

- Thời này sau ba lần đuổi giặc, đức vua biết nới sức dân, chú tâm tuyển chọn nhân tài mở mang nền thịnh trị thái bình cho dân nước. Vì vậy, con có cơ đồ đạt được công danh trên đường khoa bảng. Con là người có chí, có tài lại có đức, nhưng vì thuộc dòng cùng dân nên cái tài cái đức của con phải hơn người gấp bội mới mong được trọng dụng.

Mạc Đĩnh Chi rưng rưng nước mắt:

- Thầy đã xua tan cho con một lớp mây mù. Tạ ơn thầy chỉ giáo. Con tin theo lời thầy để cố công học tập. Ngừng lại một lát để nén xúc động, Mạc Đĩnh Chi tiếp, dáng ngần ngại thầy còn đông các em, con không dám nhận số tiền này. Lúc nào con cần sẽ xin thầy sau.

Thầy đồ thoáng buồn đỡ lấy bọc tiền Mạc Đĩnh chi đang cung kính trao lại. Đã từng dạy Mạc Đĩnh Chi bao nhiêu năm thầy đồ hiểu cậu bé khảng khái và cương nghị này không dễ bắt ép làm một việc gì mà cậu ta không cho là phải. Dầu vậy, thầy đồ vẫn có ý không bằng lòng. Nhưng ngay sau đó thầy đồ lại tự cắt nghĩa. Có lẽ nó thường bị người đời khinh rẻ do phận nghèo, nên mới khí khái quá đáng như thế. Và, cho đến lúc Mạc Đĩnh Chi ôm bọc hành lý đã đi xa, thầy đồ vẫn đứng nhìn theo mãi. Phải xa cậu học trò yêu, thầy đồ vừa vui vừa buồn. Vui vì thầy đồ thấy mình làm được một việc có nghĩa. Chắc rằng gặp được thầy dạy giỏi, sức học Mạc Đĩnh Chi sẽ mau chóng tấn tới. Từng dạy học lâu năm, nhiều người đã thành đạt, nhưng thầy đồ chưa thấy trò nào thông minh, có trí nhớ kỳ lạ, ứng đối nhanh nhẹn, nhất là có nghị lực như Mạc Đĩnh Chi. Thầy đồ buồn vì phải xa người trò vừa giỏi vừa ngoan. Đặc biệt điều làm thầy đồ băn khoăn là liệu Mạc Đĩnh Chi có đủ tiền gạo theo học đến đầu đến cuối không? Mặc dầu vậy, linh tính như báo trước: Một cậu bé có nghị lực phi thường đã từng chịu cảnh nghèo, khổ công học trong bao năm thì nay cũng sẽ vượt được tất cả.

Tin Mạc Đĩnh Chi đỗ trạng nguyên được lan truyền rất nhanh ở kinh đô. Ngay sau lễ truyền lô, nhân dân kinh đô Thăng Long xôn xao bàn tán về tài học có một không hai của vị tân trạng nguyên vốn là con nhà tiều phu xuất thân. Rồi họ nô nức kéo nhau đi xem mặt trạng. Nhưng cũng giữa khi ấy, trong triều đình lại xảy ra một việc trái thường. Lúc Mạc Đĩnh Chi vào ra mắt vua Trần Anh Tông trước khi đi giễu qua các phố thì thấy tướng mạo Mạc Đĩnh Chi quá xấu, vua chẳng nói chẳng rằng cho Mạc Đĩnh Chi lui và bắt hoãn các nghi lễ đón rước trạng. Vua cho vời quan chủ sự cuộc thi vào hỏi:

- Khanh đã xem xét kỹ lưỡng bài văn của các sĩ nhân chưa? Trẫm ngỡ rằng có sự nhầm lẫn nào chăng?

- Muôn tâu vương thượng! Thần và các quan chủ khảo cũng vì sợ sự nhầm lẫn đó mà đã xem đi xem lại nhiều lần. Thực tài Mạc Đĩnh Chi hơn nhiều người lắm.

- Trẫm phải xem lại lần nữa văn bài của Mạc Đĩnh Chi và mấy sĩ nhân được chấm đỗ cao.

Lập tức một xếp bài thi được đem đến. Vua Anh Tông chăm chú đọc lại các bài thi. Hồi lâu vua nói với quan chủ sự:

- Quả thật lý lẽ của Mạc Đĩnh Chi hàm súc, thanh thoát không sĩ nhân nào sánh được. Trẫm khá khen thay. Chẳng hay tính hạnh của Mạc Đĩnh Chi ra sao?

- Thật không ngờ con người sớm phải chịu cảnh mồ côi cha. Việc ăn học của Mạc Đĩnh Chi chỉ do một tay người mẹ hèn, làm nghề đốn củi chăn lo.

- Sao, con nhà tiều phu à? Vua ngắt lời viên quan, không giấu được vẻ sửng sốt thất vọng.

- Nhưng viên quan tiếp thần xin lấy đầu đảm bảo Mạc Đĩnh Chi là người cương trực, liêm khiết biết kính trên nhường dưới. Về mặt ứng đối lại càng sắc sảo. Con người ấy nếu biết dùng sẽ là người có tài kinh bang tế thế đời này.

Vua Anh Tông cau mày suy nghĩ rồi nói, giọng không vui: - Trẫm thật lấy làm tiếc, một người có tài nhường ấy mà lại là hạng cùng dân. Đã thế tướng mạo lại xấu xí. Trẫm thật tình không muốn cho đỗ.

Đêm ấy Mạc Đĩnh Chi thao thức không ngủ được. Hóa ra không phải bọn nhà giàu khinh rẻ kẻ nghèo mà chính vua cũng chê kẻ nghèo. Mới chỉ có mấy ngày sống ở kinh đô, bước đầu tiếp xúc với các văn võ bá quan, Mạc Đĩnh Chi đã học được bao điều không có trong sách vở. Trong thâm cung của sự thật bao giờ cũng chứa bao điều cay đắng Mạc Đĩnh Chi buồn rầu, nhận ra điều ấy. Lẽ nào leo cau đã đến buồng, cau đã cắt được rồi, mà bỗng dưng, chỉ vì phận nghèo, kết quả rồi lại xôi hỏng bỏng không! Ta lại phải rời kinh đô, trở về làng cũ, dùi dập bao năm dùi mài đèn sách, sôi kinh nấu sử. Hơn thế nữa, vùi dập cả bao mơ ước muốn đem những điều đã học để phụng sự cho đời hay sao? Mạc Đĩnh Chi suýt bật khóc khi nghĩ tới mẹ già từng chịu bao cay đắng, tủi nhục vì con và đang đỏ mắt trông chờ tin con. Từ đáy lòng Mạc Đĩnh Chi thấy dôi nên tình cảm yêu ghét xen lẫn lòng oán giận đối với triều đình vua Trần. Nhưng chẳng lẽ ta lại cam chịu số phận ấy một cách dễ dàng đến thế? Chẳng lẽ vua Anh Tông lại thiển cận đến mức ấy sao? Sau gần trọn đêm mất ngủ, một ý định chợt nảy ra: ít nhất cũng phải để cho vua thấy ta tuy nghèo nhưng là người có phẩm giá thanh cao, có chí thờ vua giúp nước như bao người quyền quý khác. Ý nghĩ ấy khiến Mạc Đĩnh Chi thấy tỉnh táo, minh mẫn hẳn lên. Ta phải viết một bài phú dâng vua nói được ý mình! Mạc Đĩnh Chi vùng dậy đốt nến, lấy nghiên bút thực hiện ý định. Mạc Đĩnh Chi viết bài phú rất nhanh. Viết nhanh, diễn đạt ý nghĩ của mình khúc chiết, sắc sảo, đó là chỗ mạnh của Mạc Đĩnh Chi; huống hồ ý tứ bài phú tuy mới dội lên hồi đêm, nhưng là những điều đã chất chứa, tích lũy qua bao nhiêu sách vở, qua bao nhiêu vị cay đắng, mặn chát cả cuộc đời. Vì vậy, không đầy một trống canh, bài phú dâng vua đã thảo xong. Mạc Đĩnh Chi buông bút, ngả người lên thành nghế đọc lại bài phú và hài lòng vì thấy đã gói gọn được ý mình. "Ngọc tỉnh liên" (hoa sen trong giống ngọc), đầu đề bài phú cũng thật hợp với hàm ý toàn bài. Nói được ý mình, Mạc Đĩnh Chi như thấy trút được những ấm ức trong lòng. Mạc Đĩnh Chi phấn chấn đọc lại những đoạn mà mình thích thú nhất.

- Chẳng phải như đào trần, lý tục; chẳng phải như trúc cỗi mai gầy.

Cầu kỷ phòng tăng khó sánh; mẫu đơn đất Lạc nào bì.

Giậu Đào lệnh, cúc sao quý được; vườn Linh Quân, lan sá kể gì.

Chợt Mạc Đĩnh Chi cảm thấy bài phú còn chỗ nào chưa thật như ý. Mạc Đĩnh Chi vội đọc lại lần nữa rồi căng óc suy nghĩ. Phải rồi, nếu chỉ làm rõ được phẩm giá thanh cao của mình thì thật chưa hoàn hảo. Phải thêm, chính ta là người có chí tiến thủ, muốn được như người xưa, đem tài năng đức độ cáng đáng những trọng trách gây đời thịnh trị cho dân nước. Và, ta có thể làm được những việc ấy chứ không phải bên trong trống rỗng. Chẳng qua số phận ta gặp nhiều trắc trở, không được thi thố hết sức mình. Nhưng dầu số ta có hẩm hiu như thế chăng nữa, những điều ta đọc được, học được để phụng sự cho đời cũng không dễ gì mai một. Rồi một lúc nào đấy, ta sẽ được mặc sức mà đem tài năng nối chí người trước, cứu cho khắp, giúp cho cùng muôn họ. Cần thêm những ý dù phải chép lại cả bài phú Mạc Đĩnh Chi tự nhủ và cầm bút ghi vội những ý nóng hổi:

- Không là bên trong trống rỗng không có gì. Than cho số phận thuyền quyên phần gặp nhiều trắc trở. Nếu cái cuống lá của ta vẫn đứng thẳng, thì mưa gió có hại gì."

Bài phú được dân lên vua. Vua Trần Anh Tông xem xong lại càng sửng sốt trước tài năng của Mạc Đĩnh Chi. Vua nói với văn thần:

- Trẫm chưa đọc bài phú nào hay đến thế. Không câu nào, chữ nào thoát ra khỏi khuôn phép của đầu đề. Phải là người có học vấn uyên thâm, có khí phách cao cường mới viết được bài phú như vậy. Một người như thế lẽ nào ta không cho đỗ trạng.

Quyết định của vua thật bất ngờ. Ngay ngày hôm đó, vua cho vời Mạc Đĩnh Chi vào cung và ra lệnh cho các quần thần phải làm đầy đủ mọi nghi thức đối với một vị tân trạng nguyên.

Vì cảm phục tài năng của Mạc Đĩnh Chi, vua Anh Tông phải cho đỗ trạng. Nhưng trong thâm tâm vua và các quan đại thần triều Trần đều không có ý trọng dụng vị tân trạng nguyên có tướng mạo xấu xí ấy. Vì thế, mấy năm rồi Mạc Đĩnh Chi chỉ được làm một chức quan nhỏ: Nội thư gia, chức quan ít quyền hành, không có điều kiện thi thố tài năng.

Nhưng rồi, có lần vua Anh Tông đã nhận ra sai sót của mình và phải trọng dụng Mạc Đĩnh Chi. Chuyện ấy cả kinh đô ai cũng biết. Giới văn thần từ đó càng khâm phục Mạc Đĩnh Chi hơn.

Câu đối viết tặng bạn đồng liêu

Trong khi làm quan tại triều, Mạc Đĩnh Chi có người bạn đồng liêu, ông này lấy hai vợ nhưng hay ghen tuông nhau. Một hôm, tan triều, ông gọi ông bạn kia trao cho một đôi câu đối, nói mới nghĩ ra để tặng bạn dán ở cửa buồng. Câu đối ấy đều dùng liền trong sách Hán Cao Tổ và trong Kinh Thư, mà rất hợp với cảnh bạn ông:

Đông đầu Hán-vương thắng, Tây đầu Hạng vương thắng, quyền túc tại túc hạ (Danh Đông Hán vương được sang Tây Hạng vương được, quyền ở dưới gót)

Chinh Đông Tây- di oán, chinh Nam Bắc-địch oán, hà đọc hậu dự? (Đánh Đông mọi Tây oán, đánh Nam rợ Bắc oán: sao đến ta sau?)

Câu đối viết ở chốn lầu xanh

Thốn thổ thị lương điền, canh giá bất câu xuân hạ nhật (Tấc đất làm ruộng tốt, cấy cày không kể hạ hay xuân)

Tứ hoang giai ngã thác, thân tình hề dụng bắc nam nhân (Tay rộng mở bốn bề, thân tình không kể kẻ bắc nam)

Đi sứ nhà Nguyên sửa

Đối đáp với quan giữ ải Phong Lũy (tức Mục Nam quan)

Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, do trời mưa làm trở ngại đường đi nên đến cửa khẩu sai hẹn, quân canh gác đóng cửa buộc phải chờ sáng hôm sau mới được qua ải. Thấy sứ bộ Đại Việt cứ biên bạch đòi mở cửa để đi cho kịp thì viên quan phụ trách ải nói: "Nghe nói ngài là người có tài văn chương. Sao không đem sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một câu đối, nếu đối thông suốt, tôi sẽ mở cửa ải; bằng không xin ngài chờ tới sáng". Rồi quân Nguyên thả từ trên cửa thành cao xuống một câu đố thách thức nếu sứ bộ đối được thì họ sẽ mở của thành cho đi.

vế ra: 過闗遲闗官閉閼過客過闗 Quá quan trì, quan quan bế, át quá khách quá quan (Nghĩa là: “Tới cửa ải chậm trễ, cửa ải đóng, người coi ải đóng cửa không cho khách qua”).

Nhưng nghe không ổn; bởi vì sự thể rõ ràng là người giữ ải không muốn cho khách qua ải lúc tối; chứ không hề có ý mời khách đi qua?! vế đối có 3 chữ quá và 4 chữ quan, ông suy nghĩ một lát rồi đọc

vế đối như sau: 先對易對對難請先生先對 Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Nghĩa là: “Ra câu đối dễ, đáp lại khó, xin mời ngài đối trước”).

Vế đối của Mạc Đĩnh Chi có 4 chữ “đối” và 3 chữ “tiên,” đáp đúng với câu đối của viên quan giữ ải. Tưởng sẽ đưa sứ bộ Đại Việt vào thế bí; nào ngờ lại có vế đối quá hay. Quan coi ải vái Mạc Đĩnh Chi hai vái và quân Nguyên mở của ải để sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi đi qua biên giới vào giữa đêm. Theo giáo sư Lê Văn Đặng thì có lẽ ai đó (?) đã bịa ra giai thoại nầy khá hay, nhưng vế 2 chỉ đối được âm Hán Việt, không đối được chữ; nghĩa không chỉnh ở chữ thứ 5 của 2 vế: 官 (ông quan) khác với 對 (câu đối)

Đối đáp với cao tăng đắc đạo

Qua ải ít lâu, đoàn sứ bộ ghé vào vãn cảnh một ngôi chùa ở mé đường, Mạc Đĩnh Chi có ngồi bàn luận văn chương với một nhà sư Trung Hoa.

Nhà sư đọc: 几以木杯不木如何以几為杯 Kỷ dĩ mộc, bôi bất mộc, như hà dĩ kỷ vi bôi (Ghế là gỗ, chén chẳng là gỗ, sao nỡ lấy ghế làm chén)

Mạc Đĩnh Chi đối: 僧曾人佛弗人何乃以僧師佛 Tăng tằng nhân, Phật phất nhân, hà nãi dĩ tăng sư Phật? (Sư là người, Phật chẳng là người, sao lại để cho sư thờ Phật?)

Câu đối đều mang tính chiết tự: Chữ “kỉ” [杞] gồm hai chữ “dĩ” [已] và “mộc” [木]; chữ “bôi” [杯] gồm hai chữ “bất” [不] và “mộc” [木] ; chữ “tăng” [僧] gồm hai chữ “tằng” [曾] và “nhân” [ ] ; chữ “Phật” [佛] gồm hai chữ “phất” [弗] và “nhân” [ ]. Hàm ý của vế ra đối chê ông Mạc người thấp bé (như cây gỗ kỉ) mà được trọng dụng. Vế đối lại cũng có thể có hàm ý: "việc tu hành của ông chẳng hợp lẽ chút nào".

Giải oan cho Thư sinh

Trên đường đi đến kinh đô nhà Nguyên, trong một chiều hè nóng bức, Mạc Đĩnh Chi và tùy tùng lúc ấy thấy một quán nước ven đường thì dừng lại nghỉ chân. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đến chào khách. Gần quán có một giếng nước. Trên thành giếng có viết 5 chữ: 銀缾腱上鼻 Ngân bình, kiên thượng tị.

Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chủ quán chậm rãi kể: "Xưa có một cô gái bán hàng nước ở đây rất thông minh, học giỏi, chữ nghĩa tốt. Có một anh học trò thầm yêu cô hàng nước, muốn ngấp nghé. Ngày ngày đi học về, thường ghé vào quán uống nước; và tìm lời trêu ghẹo. Một hôm cô hàng nước nói thực với anh: "Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa, Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây quấy rầy làm gì nữa". Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân nhìn thấy cái ấm tích bằng bạc trên bàn, mới ra câu đối trên có nghĩa là “Bình bạc, mũi trên vai.” (Ý nói cái vòi trên cổ ấm nước). Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống cái giếng gần đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế xuất câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được". Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười: "Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm giải oan cho hồn kẻ thư sinh".

Mạc Đĩnh Chi bèn đọc: 金鎖腹中鬚 Kim tỏa, phúc trung tu (Nghĩa là “Khóa vàng, râu trong bụng.” Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa). Sau đó, Mạc Đĩnh Chi sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nước năm xưa. Mọi người đều chịu ông đối giỏi.

Ứng khẩu khi bị sa xuống hố

Sau nhiều ngày vất vả, Mạc Đĩnh Chi cùng sứ bộ đến Yên kinh, kinh đô nhà Nguyên. Nghe tin đồn Trạng nguyên An Nam nổi tiếng thông minh, quan lại nhà Nguyên mới hội nhau bàn cách chơi trác. Họ đào một cái hố vừa to, sâu quá đầu người, trên ngụy trang như đường đi ngay trước cây cầu vào kinh thành. Hôm sau, Mạc Đĩnh Chi dẫn sứ bộ vừa đi tới đó. “Huỵch" một tiếng, cả người lẫn ngựa Mạc Đĩnh Chi lăn luôn xuống hố. Các quan Tầu phá ra cười (cốt để hạ nhục Mạc Đĩnh Chi) rồi một viên quan nói: "Nghe nói tiên sinh là người đối đáp xuất chúng, chúng tôi không tin. Nếu tiên sinh đối được câu đối này thì toàn bộ quan lại chúng tôi xin đỡ tiên sinh lên". Ông đồng ý.

Viên quan kia đọc: 杆木横渠陸假相如私道 Can Mộc Hoành Cừ Lục Giả Tương Như Tự Đạo (Nghĩa là: “Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng”).

Cái khó của câu này là ở chỗ dùng toàn tên những người nổi tiếng trong sử Trung Hoa ghép lại. Theo đó, “Can mộc” là Đoàn Can Mộc, một nhân vật đời Chiến quốc; “Hoành Cừ” là tên hiệu của Trương Tải, một triết gia đời Bắc Tống; “Lục Giả” người nước Sở, giỏi biện luận, theo giúp Hán Cao Tổ; “Tương Như” là Lạn Tương Như, một nhân vật nổi tiếng đời Chiến Quốc; “Tự Đạo” là Giả Tự Đạo, người đời Tống, một quyền thần chuyên chế.

Mạc Đĩnh Chi nhớ lại lúc trước khi ngã, ông nhìn thấy ở bên kia sông có cái đình dưới chân núi, nhân thế chỉ tay thẳng đình mà đối: 大庭安石望之染略天台 Đại Đình An Thạch Vọng Chi Nghiễm Lược Thiên Thai (Nghĩa là: “Đình to, đá vững, nhác trông như thể (núi) Thiên Thai”)

Câu này cũng dùng toàn tên người ghép lại như ở câu chủ mà lại có ý khoáng đạt hơn nhiều, theo đó “Đại Đình” là một biệt hiệu của Thần Nông; “An Thạch” tức Vương An Thạch Thừa tướng đời Bắc Tống; “Vọng Chí” là danh nhân đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên Đế; Thiên Thai là một Tông Phái Phật Giáo, do Bồ-tát Long Thọ sáng lập 龍樹(梵文:Nāgārjuna) Riêng chữ "Nghiễm Lược" các nhà nghiên cứu chưa tra cứu ra là ai?! Chưa hiểu hết ý tưởng uyên thâm của Mạc Đĩnh Chi…Đúng theo lời hứa, văn võ bá quan triều Nguyên bất chấp áo mũ xúm lại đỡ ông Trạng lùn xấu xí nước Nam lên khỏi hố.

Đối đáp với viên quan người Tống

Mạc Đĩnh Chi và đoàn sứ đang cưỡi lừa đi xem hàng ngoài đường phố, thì bỗng lừa Mạc Đĩnh Chi đụng độ với ngựa của một viên quan người Tống.

Viên quan này nhìn Mạc Đĩnh Chi bằng nửa con mắt và đọc một câu: Xúc ngã kỵ mã, Đông di chi nhân giả, Tây di chi nhân giả (chạm phải ngựa ta, không rõ là bọn Đông Di hay Tây Di vậy)

Viên quan này lấy chữ "Đông di" ở sách Mạnh Tử, tỏ ý khinh rẻ người nước Nam là kẻ mọi rợ.

Mạc Đĩnh Chi nhìn thẳng vào mắt tên quan, đáp: Át dư thừa lư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư (cưỡi lừa dạo chơi, mới biết người Bắc khoẻ hay người Nam khoẻ).

Vì chữ "Nam phương" lấy ở sách Trung Dung đã nói rõ thâm ý người phương Bắc chắc gì đã mạnh hơn người phương Nam, nếu mạnh hơn sao lại chịu để giặc Nguyên đô hộ? Viên quan người Tống kia tỏ ý xấu hổ, ra roi cho ngựa đi thẳng không dám hoạnh hoẹ nữa.

Đối đáp với các quan lại Nguyên triều

Một lần Mạc Đĩnh Chi đến thăm phủ Thừa tướng nhà Nguyên. Trong phủ trang hoàng lộng lẫy, giữa phòng có treo một bức trướng to hình con chim sẻ đậu trên cành trúc trông rất thật. Mạc Đĩnh Chi ngỡ là chim sẻ thật đậu ngoài cửa sổ nên chạy đến xem thì mới biết đó chỉ là bức hoạ. Thừa tướng và các quan quân nhà Nguyên đều phá lên cười và có ý châm chọc. Mạc Đĩnh Chi vội lấy bức họa xuống và xé toạc thành nhiều mảnh. Mọi người đều kinh ngạc. Bấy giờ ông mới nghiêm mặt giải thích: "Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của tể tướng lại thêu cành trúc với chim sẻ. Trúc là bậc quân tử, chim sẻ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng thêu như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy. Tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân".

Quan nhà Nguyên cho là phải, không dám cười nữa.

Bữa nọ, trong lúc chờ thiết triều, quan Thừa Tướng ra vế đối:

安去女已豕為家 An nữ khứ, dĩ thỉ vi gia (Chữ “an 安” bỏ chữ “nữ 女” đi, thêm chữ “thỉ 豕” vào thành chữ “gia 家”/“nhà”).

Thấy ông là người thấp bé xấu xí tỏ ý khinh thường, đại ý là họ coi ông xấu xí như lợn, mà đưa đi sứ. Ngoài ra còn có ý khác là nhà Nguyên cần phải xóa sổ nước An Nam để nhập vào bản đồ Trung Quốc)

Mạc Đĩnh Chi đáp lại:

囚出人立王成囯 Tù nhân xuất, nhập vương thành quốc (Chữ “tù 囚” bỏ chữ “nhân 人” đi, thêm chữ “vương 王” vào thành chữ “quốc 囯”)

Đại ý là người ở trong tù đưa ra thì họ cũng làm được vua một nước, câu này đối ý cũng rất chuẩn vì nó nói nên rằng dân Đại Việt không chịu đè nén như vậy mà vẫn đứng vững thành một quốc gia riêng)

Quan Thượng Thư thấy vậy đọc:

Thập khẩu tâm tư, tư quốc tư gia, tư phụ mẫu (câu này dùng phép chiết tự, chữ thập 十, chữ khẩu 口, chữ tâm 心 gộp lại thì thành chữ tư 思 có nghĩa là nhớ: nhớ nước, nhớ nhà, nhớ cha mẹ)

Mạc Đĩnh Chi lên tiếng đối luôn:

Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương (chữ thốn 寸,chữ thân 身, chữ ngôn 言 gộp lại thành chữ tạ 謝 có nghĩa là cám ơn: cám ơn trời, cám ơn đất, cám ơn vua)

Câu đối trên đây na ná với giai thoại về mối tình của Đường Bá Hổ - Điểm Thu Hương bên Trung Quốc: vế ra của Điểm Thu Hương 十口心思 思国思家思社稷 Thập khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư xã tắc (Chữ thập 十 nằm trong chữ khẩu 口 thành chữ điền 田, chữ điền 田 trên chữ tâm 心 thành chữ 思 (nhớ), nhớ nước, nhớ nhà, nhớ xã tắc) và vế đối của Đường Bá Hổ 八目尚賞賞风賞月賞秋香 Bát mục thượng thưởng thưởng phong thưởng nguyệt thưởng Thu Hương (Chữ mục 目 trên chữ bát 八 thành chữ bối 貝, chữ 貝 nằm dưới chữ thượng thành chữ thưởng (thưởng thức), thưởng gió, thưởng trăng, thưởng Thu Hương (Thu Hương là người tình của Đường Bá Hổ)

Quan Thái Sư đứng cạnh đó tiếp tục ra:

Thiên lý vi trùng, trùng thủy trùng sơn trùng nhật nguyệt (Nghĩa là: Việt cách Trung Quốc nghìn dặm, núi sông nước đều giống như Trung Quốc. Nghĩa bóng: Họ gạ nước Việt nhập vào Trung Quốc)

Mạc Đĩnh Chi đối lại như sau:

Nhất nhân thành đại, đại quân đại quốc đại càn khôn (Nghĩa là: Một người cũng là lớn, có vua lớn, nước lớn có trời đất lớn. Nghĩa bóng: Nước Việt tuy nhỏ nhưng cũng có vua quan, có trời đất riêng không phụ thuộc vào ai)

Quan Thái Uý liền nối tiếp mạch văn chương:

Hải trung hàm thủy thanh thiên bao nhật nguyệt tinh thần (Nghĩa là: Trong bể đựng nước bao bọc trời xanh mặt trời mặt trăng và cả tinh thần. Nghĩa bóng: Đại ý nói Trung Quốc là nước lớn rộng như trời biển bao bọc cả trời xanh mặt trời mặt trăng và cả các vì sao, so nước Việt thì nước Việt nhỏ bé)

Mạc Đĩnh Chi đối lại như sau:

Hàn thượng phân kim chỉ địa quát đông tây nam bắc (Nghĩa là: Trên mâm chia vàng chỉ xuống đất bao quát cả đông tây nam bắc. Nghĩa bóng: Trên một cái mâm chia vàng ai cũng được chia như nhau không cậy lớn mà chia ít cho người khác chỉ xuống đất bao quát thấu suốt được 4 phương đông tây nam bắc, nói cách khác không thể khinh nước nhỏ mà ăn hiếp được)

Đối đáp với Hoàng Đế Nguyên Vũ Tông

Đến khi thiết triều, vua Nguyên thấy sứ An Nam thấp lùn xấu xí liền ra một vế đối: Lị Mị Võng Lưỡng tứ tiểu quỷ (dịch nghĩa: Lị, Mị, Võng, Lưỡng là 4 con quỷ nhỏ) thiên tử có ý chê Mạc Đĩnh Chi hình dung xấu như quỷ, hơn nữa lại chơi chữ bởi các chữ lị [魑], mị [魅], võng [魍], lượng [魎] đều có bốn chữ quỷ [鬼] ở bên phải.

Mạc Đĩnh Chi đối lại: Cầm Sắt Tỳ Bà bát đại vương (dịch nghĩa: Cầm, Sắt, Tỳ Bà có 8 vua lớn) các chữ cầm [琴], sắt [瑟], tì bà [琵 琶] đều có tám chữ vương [王] đặt ở trên, phía trên là tên các loài quỷ phía dưới là tên các loại đàn. Vế đối này ông đã khéo chọn tên những cây đàn trong đó có 8 chữ vương. Chẳng những đã khéo tìm chữ đối lại với con số 4 mà lại có ý bảo ta đây là 8 vị đại vương chứ không phải 4 con quỷ nhỏ)

Sau này trong ca dao có những câu sau: "Cầm đàn gảy khúc nam thương, tì bà cầm sắt bát vương đối gì?" và "Khéo đưa sách cổ mà ôn, lị mị võng lượng bốn con quỷ ngồi" là lấy ý từ giai thoại đối đáp trên. Trong tiểu thuyết võ hiệp "Xạ điêu anh hùng truyện" của Kim Dung, tác giả đã dùng câu đối này đưa vào đoạn Quách Tĩnh cõng Hoàng Dung đi gặp Nam Đế chữa bệnh và thi thố với tứ đại đệ tử của ông là: Ngư, Tiều, Canh, Độc.

Vua Nguyên tuy phục tài nhưng vẫn tiếp tục ra một vế nữa: Quých tập chi đầu, đàm Lỗ luận: tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri (Chim chích đậu đầu cành, bàn sách Luận ngữ: biết thì nói là biết, không biết thì nói không biết, đó mới là biết - câu này dùng chữ trong Luận ngữ. Âm "i" nhại tiếng chim kêu líu lo, chọc âm của tiếng Việt)

Mạc Đĩnh Chi đáp lại: Oa minh trì thượng, độc Châu thư: lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chủng lạc nhạc, thục lạc? (Con ếch kêu trên bờ ao, đọc Châu thư: vui cùng ít người nhạc vui, vui cùng nhiều người nhạc vui, đằng nào vui hơn? - câu này dùng chữ trong Mạnh tử. Âm "ạc" nhại tiếng ếch kêu, chê giọng ồm ồm của người Tàu)

Lúc đoàn sứ thần sắp về nước thì đúng vào dịp công chúa của vua Nguyên mất. Lúc tế vong, quan nhà Nguyên đưa cho Chánh sứ An Nam bài điếu văn viết sẵn, bảo đọc. Khi Mạc Đĩnh Chi mở giấy ra thì chỉ thấy viết có 1 chữ "Nhất" "-"(là một). Ông chẳng hề lúng túng, vừa nghĩ vừa đọc thành bài điếu văn: 青天一朵雲

烘爐一點雪

上苑一枝花

瑤池一片月

噫雲散雪消花殘月缺

Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết!

Tạm dịch:

Một đóa mây giữa trời xanh

Một giọt tuyết trong lò lửa

Một cành hoa giữa vườn thượng uyển

Một vầng trăng trên mặt nước hồ

Ôi! mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!

Bài văn khiến người Nguyên rất khâm phục, tuy nhiên theo Liêu sử thì bài này do 1 vị sứ thần nhà Tống sang sứ nước Liêu làm lúc điếu tế công chúa nước này. Trong cuốn "Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn" (Nxb. KHXH, H. 1977) do cụ túc nho Phạm Trọng Điềm dịch. Trong phần tùng đàm của cuốn sách có đoạn: "Thuyết phu tùng thuyết nói: Dương Ức nhà Tống sang sứ phương Bắc, triều đình phương Bắc sai ông đọc bài văn kính tế hoàng hậu, ông bưng chúc văn để đọc thì chỉ thấy giấy trắng không một chữ gì cả. Ông liền tự đọc lên rằng: Duy linh, Vu sơn nhất đóa vân, Lãng uyển nhất đoạn tuyết, Đào nguyên nhất chi hoa, Thu không nhất luân nguyệt. Khởi kỳ, vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết. Phục duy thượng hưởng; nghĩa là: Kính nghĩ anh linh như một đóa mây Vu Sơn, một khối tuyết Lãng uyển, một cành hoa nguồn đào, một vầng trăng trời thu. Ngờ đâu mây tán, tuyết tiêu, hoa tàn, trăng khuyết. Kính xin hâm hưởng. Chân Tông nhà Tống nghe biết việc này khen là có tài mẫn tiệp, làm rạng rỡ được thể diện trong nước. Thế mà tục truyền việc ấy là Nguyễn Đăng Cảo bản triều (tr.448)".

Căn cứ vào tư liệu trên đây thì tác giả bài Văn tế là Dương Ức sống dưới thời Tống Chân Tông khoảng năm 998. Ông là người thông minh, đỗ Tiến sĩ được Tống Chân Tông tin dùng cất nhắc lên giữ việc chế cáo kiêm chức Tu soạn trong Sử quán. Tống Chân Tông đã có thơ tặng và ca ngợi tài học của ông.

Như vậy là đã rõ, bài văn tế này là của Trung Quốc và người đời sau đã đem gán cho Mạc Đĩnh Chi cách sau đời Tống đến trên ba thế kỷ, đã tạo thành một câu chuyện giai thoại, và theo Lê Quý Đôn thì bài văn còn được gán cho Nguyễn Đăng Cảo (1619 - ?) sống cách đời Tống sau 600 năm! "Hai" bài văn tế tuy có khác nhau một số từ nhưng đều là những tiểu tiết không làm ảnh hưởng đến chủ đề chính của bài văn. Bài của Trung Quốc thì tế Hoàng hậu, bài "của Việt Nam" thì tế Hậu phi, tế Công chúa. Ta hãy so sánh:

BÀI CỦA TRUNG QUỐC

Vu Sơn nhất đóa vân

Lãng uyển nhất đoạn tuyết

Đào nguyên nhất chi hoa

Thu không nhất phiến nguyệt.

BÀI CỦA VIỆT NAM

Thanh thiên nhất đóa vân

Hồng lô nhất điểm tuyết

Thượng uyển nhất chi hoa

Dao trì nhất phiến nguyệt.

Trên đây là một vài tư liệu nhằm làm sáng tỏ một câu chuyện giai thoại lâu nay được gán cho Mạc Đĩnh Chi.

Lại một lần khác, Mạc Đĩnh Chi cùng với sứ thần một số nước ra mắt vua Nguyên. Nhân có nước nào đó dâng chiếc quạt, vua Nguyên bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Giữa lúc Mạc Đĩnh Chi còn tìm tứ thơ, thì sứ Triều Tiên đã viết liến thoắng. Ông nhìn theo quản bút đọc thấy sứ Triều Tiên viết hai câu chữ Hán, dịch nghĩa như sau:

"Nóng nực oi ả, thì như Y Doãn, Chu Công" (là những người được vua trọng dụng)
"Rét buốt lạnh lùng, thì như Bá Di, Thúc Tề" (là những người bị ruồng bỏ)

Với sự nhanh trí kì lạ, Mạc Đĩnh Chi liền phát triển hai câu thơ trên thành một bài xuất sắc, mô tả chiếc quạt:

Lưu kim trước thạch, thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di Tề ngạ phu.
Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù.

Dịch nghĩa:

Chảy vàng, tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho.

Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo.

Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru!

Bài của Mạc Đĩnh Chi làm xong trước, ý sắc sảo, văn lại hay, nên vua Nguyên xem xong cứ gật gù khen mãi. Vua Nguyên cảm phục tài và đức của Mạc Đĩnh Chi, và phong "Lưỡng quốc Trạng nguyên" (trạng nguyên hai nước) và chữ do chính tay hoàng đế nhà Nguyên viết.

Tương truyền, sau khi Mạc Đĩnh Chi cùng với sứ thần Cao Ly thi tài làm thơ đề quạt, 2 người đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Khi Trạng Cao Ly về nước, ông mời Trạng Mạc sang thăm Cao Ly bốn tháng. Lần ấy, Trạng Cao Ly làm mối cho Trạng Mạc một người cháu gái để làm thiếp. Sau bốn tháng, người thiếp ấy theo Trạng Mạc về Trung Quốc, 5 năm sau thì bà về nước cùng với hai người con, một trai một gái. Mười năm sau, Trạng Mạc lại sang Cao Ly một lần nữa. Lần này, ông ở lại Cao Ly sáu tháng, đi du lãm khắp Cao Ly và có tập thơ truyền thế. Người Cao Ly rất hâm mộ ông, bởi ai cũng biết ông là bậc thông minh xuất chúng. Hết sáu tháng, ông trở về Trung Quốc rồi về Việt Nam, khi ấy người thiếp có mang đã ba tháng, sau sinh một bé trai. Người vợ Cao Ly của ông rất chịu thương chịu khó nuôi nấng dạy bảo các con, dựng vợ gả chồng và thường ở với người con trai út. Sau đó, bà từ biệt con cháu, đi vào chùa ở, hưởng thọ 93 tuổi. Hai người con trai của Mạc Đĩnh Chi sau này cũng trở thành bậc kỳ tài của xứ sở Cao Ly. Người con trai cả của Trạng ra làm quan võ, sinh được 12 người con: 8 trai, 4 gái... Nhánh trưởng này phần đông là người giàu có. Nhánh thứ hai, sau này sinh ra nhiều nhân tài, phần nhiều là người trung nghĩa liêm khiết.

Giai thoại đề thơ tại đền Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ

Mạc Đĩnh Chi đi xứ sang nhà Nguyên có đi qua đền thờ Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ ở bến Ô Giang, tương truyền hễ ai đi qua đoạn sông này y như rằng sẽ gặp sóng to gió lớn. Người dân ở đây bảo phải mang hàng vạn tiền vàng ghé qua đền thắp hương đốt vàng tiền cho Bá Vương thì mới qua được, nhiều người y lời làm như vậy quả nhiên sóng gió lập tức ngừng lại ngay. Từ đó thành lệ hễ ai đi qua muốn suôn sẻ cũng phải dừng lại đốt tiền vàng như thế cả, Mạc Đĩnh Chi thấy vậy đến bên đền cầm bút viết ngay trước cổng bài thơ sau:

君莫非君臣非臣
如何庙冒在江津
江东惜日由嫌小
何惜烧残百万斤

"Quân mạc phi quân thần phi thần"

"Như hà miếu mạo tại giang tân"

"Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu"

"Hà tích thiêu tàn bách vạn cân"

Dịch nghĩa:

Vua chẳng ra vua tôi cũng không

Cớ sao đền miếu ở bên sông

Giang Đông ngày trước còn chê hẹp

Sao hám tiền gio mấy vạn đồng

Nguyên Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ ngày trước sau khi thất thế bị quân Hán truy kích chạy sang phía đông, vượt sông Ô Giang. Người đình trưởng Ô Giang cắm thuyền đợi, bảo Hạng Vương: "Giang Đông tuy nhỏ, đất hàng ngàn dặm, dân vài mươi vạn, cũng đủ làm vương. Xin đại vương mau mau vượt sông. Nay chỉ một mình thần có thuyền, quân Hán đến không có cách gì vượt qua". Hạng Vương cười nói: "Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Vả chăng Tịch này cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng tây, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta cũng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao?" Rồi ông bảo người đình trưởng: "Ta biết ông là bậc trưởng giả, ta cưỡi con ngựa này, năm năm nay đi đến đâu cũng vô địch, thường một ngày đi ngàn dặm, ta không nỡ giết, xin biếu ông". Hạng Vương sai kỵ binh đều xuống ngựa đi bộ, cầm khí giới ngắn để tiếp chiến. Một mình Hạng Vũ giết mấy trăm quân, thân bị hơn 10 vết thương. Ông quay lại thấy kỵ binh tư mã của Hán là Lã Mã Đồng vốn là tướng cũ của mình, bèn bảo Đồng: "Ta nghe vua Hán mua đầu ta ngàn vàng, phong ấp vạn hộ. Ta làm ơn cho nhà ngươi đây". Nói rồi, Hạng Vương tự đâm cổ chết. Năm đó ông 31 tuổi, ở ngôi Tây Sở Bá vương được 5 năm (206 - 202 TCN)

Tương truyền, từ đó về sau khi đi qua đoạn sông này người ta không còn thấy sóng gió như trước nữa.