Thành viên:Matthucwiki/Kinh lăng nghiêm/Giới thiệu

Trang 1 sửa

GIỚI THIỆU

Kinh Đại Phật Đảnh

Thủ Lăng Nghiêm 

Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm  là tên gọi tắt của  Kinh  Đại Phật Đảnh  Như Lai Mật Nhân  Tu Chứng  Liễu Nghĩa  Chư  Bồ Tát  Vạn Hạnh  Thủ Lăng Nghiêm  (Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh)dosa môn Bát Lạt Mật Đế  (người Trung Thiên-trúc) dịch vào năm 705 (đời Đường) tại chùa Chế-chỉ ở Quảng-châu (tỉnh Quảng-đông), được thu vào  Tạng Đại Chánh, quyển 19, kinh số 945.Tên kinh này cũng thường được gọi một cách ngắn gọn là  Kinh Thủ Lăng Nghiêm  (hoặc gọn hơn nữa là  Kinh Lăng Nghiêm); nhưng khác với bản  Kinh Thủ Lăng Nghiêm  Tam Muội,  dopháp sư  Cưu Ma La Thập (344-413) dịch vào đời Diêu-Tần  (Tạng Đại Chánh, quyển 15). Theo  Khai Nguyên Thích Giáo Lục của  pháp sư  Trí Thăng  (đời Đường), kinh này đã do  sa môn  Hoài Địch  (?-? – người Trung-quốc) dịch; nhưng trong  Tạng Đại Chánh (quyển 19)  thì ghi người dịch là  sa môn  Bát Lạt Mật Đế, mà không có tên  sa môn Hoài Địch. Theo  pháp sư  Viên Anh  (1878-1953) trong  tác phẩm  Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm  Kinh  Giảng Nghĩa,  pháp sư  Bát Lạt Mật Đế  là vị  “dịch chủ” (người dịch  chính thức  và là vị  đứng đầu  của  đạo tràngphiên dịch), còn  sa môn  Hoài Địch  thì  phụ trách  việc “chứng nghĩa”  (thẩm định sự  chính xáccủa văn dịch).

Ý nghĩa  đề kinh:

- Đại Phật Đảnh.  Chữ “đại” ở đây có nghĩa là rộng lớn bao trùm,  rốt ráo  cùng cực. “Phật đảnh” là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của  đức Phật. Đó là tướng cao quí, nhiệm mầu nhất trong 32 tướng tốt của  đức Phật, con mắt  phàm phu  của  chúng sinh  không thể thấy được.

- Như Lai  Mật Nhân.  “Như Lai” là danh hiệu  đầu tiên trong  mười danh hiệu chung của chư Phật;  Như Lai  tức là Phật. “Mật nhân” nghĩa là  nguyên nhân  sâu kín huyền nhiệm, đó tức làchân tâm  tịch tĩnh,  thanh tịnh,  thường hằng.

- Tu Chứng  Liễu Nghĩa.  “Liễu nghĩa” có nghĩa là tiến thẳng tới chỗ  rốt ráo  cùng cực, đó là  giải thoát  trọn vẹn,  niết bàn  tuyệt đối, là  quả vị  Vô thượng Bồ đề, là Phật. Nương vào  chân tâm  bất sinh  diệt để  tu hành, tu mà không trước tướng, tu mà không tu, đó gọi là “tu liễu nghĩa”;  chấm dứt  sinh diệt,  thể nhập  thật tánh vạn hữu,  giải thoát rốt ráo, đạt  niết bàn tuyệt đối, gọi là “chứng liễu nghĩa”. Cả tu và chứng đều  liễu nghĩa, gọi là “tu chứng liễu nghĩa”.

Trang 2 sửa

- Chư  Bồ Tát  Vạn Hạnh.  Bồ-tát tu  vô số  hạnh, gọi tổng quát là “muôn hạnh”. Bồ-tát vận dụngtrí tuệ  và  từ bi, trên thì  cầu đạo  quả  giác ngộ, dưới thì  cứu độ  chúng sinh,  tự lợi  và lợi tha  gồm đủ, đó là “muôn hạnh của chư vị Bồ-tát”.

- Thủ Lăng Nghiêm.  Ba chữ này là phần chủ yếu trong đề kinh. Chữ “thủ lăng” có nghĩa là tất cả đều  rốt ráo; chữ “nghiêm” nghĩa là bền chắc. “Thủ-lăng-nghiêm” là tên một loại  định, và đó là loại  định lực  rốt ráo,  kiên cố, bao trùm tất cả  các loại  định khác, chỉ có chư vị Bồ-tát ở các bậc Thập-địa,  Đẳng-giác và Phật (Diệu-giác) mới  đạt được; bởi vậy, nó được gọi là “đại định”, hay “đại  căn bản  định”. Nó chính là  chân tâm  bản lai  thanh tịnh,  tịch tĩnh,  thường hằng, không lay động, không  tán loạn, không  dời đổi, cho nên cũng được gọi là  “Phật tánh”.

Định Thủ Lăng Nghiêm  rộng lớn, sâu nhiệm, siêu việt  thời gian  và  không gian, không thể đem  tâm thức  vọng tưởng  phân biệt của  chúng sinh  mà  nhận biết  được, giống như tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của đức Phật  (đại Phật đảnh), con mắt của chúng sinh  phàm phukhông thể trông thấy được.

Định Thủ Lăng Nghiêm  là cái nhân sâu kín, từ đó mà  phát khởi  ra  vô lượng  công đức  trí tuệcủa chư Phật, và cũng từ đó mà chư Phật  thành tựu  đạo quả  Bồ Đề Niết Bàn  Vô Thượng; cho nên nó được gọi là “Như Lai mật nhân”.

Định Thủ Lăng Nghiêm  là loại định  rốt ráo,  vô thượng, cho nên tu định này tức là tu phápmôn  viên đốn  (trọn vẹn, nhanh chóng), để chứng đạt tức thì  đạo quả  rốt ráo, tối thượng, gọi là “tu chứng liễu nghĩa”.

Chư vị Bồ-tát  thực hiện  muôn hạnh  tự lợi,  lợi tha  hoàn toàn  viên mãn  đều do  thành tựu  đượcđịnh  Thủ Lăng Nghiêm  này, cho nên định này cũng tức là “chư Bồ-tát vạn hạnh”.

Chân tâm  thanh tịnh,  tịch tĩnh,  thường hằng, vốn sẵn có nơi  chúng sinh. Nhưng vì  chúng sinhmê lầm, không tự  nhận biết  được, si cuồng  chấp có  thân tâm  ta và sự vật ở ngoài ta,  chạy theo  trần cảnh  mà phát sinh  phiền não, đắm trước, tạo ra  vô số tội lỗi; rồi theo  nghiệp lực,  quả báo mà  luân chuyển  trong  sinh tử luân hồi. Đức Phật  thương xót, nói  Kinh Thủ Lăng Nghiêmnày để độ cho các  chúng sinh  có căn cơ  cao, nhanh chóng phá trừ  mê muội, dứt tuyệt  phiền não,  chứng nhập  đại định  Thủ Lăng Nghiêm,  trực nhận bản tâm  thanh tịnh  thường trú,  sáng suốt nhiệm mầu,  đạt

Trang 3 sửa

được địa vị  Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Vị thính giả  đương cơ  để Phật nói  Kinh Thủ Lăng Nghiêm  này là  tôn giả A Nan (hay  A Nan Đà). Ngài là em chú bác của  đức Phật, sau khi theo Phật  xuất gia, được  làm thị giả  hầu cận Phật trong một  thời gian dài,  trở thành  vị  đệ tử  được nghe Phật nói pháp nhiều nhất, đầy đủ nhất, và nhớ kĩ nhất, được  mọi người  tôn kính  xưng là vị  thánh tăng  nghe nhiều hiểu rộng nhất  (đa văn đệ nhất) trong  tăng đoàn  của Phật; và được liệt vào một trong mười vị  đại đệ tửcủa Phật.*

Dịch giả của  bản kinh  này là  sa môn  Bát Lạt Mật Đế  (Pramiti, ?-?). Ngài là người Trung Thiên-trúc, trên đường viễn du  hoằng pháp, đã mang nguyên bản Phạn văn của  Kinh Thủ Lăng Nghiêm  đến chùa Chế-chỉ ở thành phố Quảng-châu (tỉnh Quảng-đông, Trung-quốc) năm 705 (đời Đường), và dịch  bộ kinh  này ra Hán văn ngay năm đó.

Theo truyền thuyết,  Kinh Thủ Lăng Nghiêm  vốn được cất giữ ở  Long cung. Nhân  Bồ Tát Long Thọ  (thế kỉ thứ 2-3 TL) xuống  Long cung thuyết pháp, thấy trong kho có  bộ kinh  này, bèn lấy raxem, cho đó là  bộ kinh  hi hữu. Ngài tụng thầm hết  bộ kinh, và nhớ thuộc lòng.  Trở về  lại trú xứ, ngài chép  bộ kinh  ấy ra để trình lên  quốc vương  xin  lưu truyền. Nhà vua cũng cho đó làPháp bảo  hiếm có, bèn ban lệnh cất vào kho, làm vật  quốc bảo  của Thiên-trúc, không những bị cấm mang ra khỏi nước mà còn bị cấm dạy cho các du tăng ngoại quốc đến Thiên-trúc  tu học.

Kinh này khi chưa truyền đến Trung-quốc, thì tên của nó đã được người Trung-quốc nghe biết và kính ngưỡng rồi. Nguyên do  là vì, một hôm nọ, một vị  Phạn tăng  lên núi Thiên-thai  tham kiến  đại sư Trí Khải  (538-597), nghe  đại sư  giảng pháp  môn “Chỉ Quán”, vị  Phạn tăng  rất bội phục, nói rằng: “Pháp môn  Chỉ Quán  do ngài phát minh ra rất gần với  giáo nghĩa  của Kinh  Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm  ở Thiên-trúc!”  Đại sư  Trí Khải  rất xúc động  khi nghe vị  Phạn tăng  nói lên điều đó. Ngài muốn được nhìn tận mắt  bộ kinh  ấy để xem  pháp môn  Chỉ Quáncủa mình giống với lời dạy của  đức Phật  tới mức nào; hoặc có gì khác nhau. Ngài liền xây một cái đài ngay trên núi Thiên-thai, gọi là Bái-kinh đài; mỗi ngày đều hướng về phương Tây  lễ lạy,cầu nguyện  cho  bộ kinh  ấy được truyền sang Trung-quốc. Ngài đã  lễ lạy  như  thế cho đến ngàyviên tịch, ròng rã  18 năm, không một ngày gián đoạn! – Mà kinh ấy vẫn chưa đến! Việc này đã được loan truyền đi khắp nước. (Một thuyết khác nói rằng: Ngài  Thiên Thai Trí Giả theo  học đạo  thiền sư  Huệ Tư  ở núi Nam-nhạc,  đắc Pháp  Hoa  Tam Muội, thấy được  pháp hội  Linh-sơnnghiễm nhiên  chưa tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên  thông suốt. Đến khi ngài  giải thích  ý nghĩa  sáu căn trong sạch  trong  kinh Pháp Hoa  thì  

Trang 4 sửa

trầm ngâm  rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với ngài: “Chỉ có  kinh Thủ Lăng Nghiêm  là nói rõ ràng  công đức  của sáu căn, đủ để y chứng.” Từ đó ngài  Trí Giả  khao  khát ngưỡng  mộ. Suốt  16  năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây  lễ bái. Ở phía trái chùa Thiên-thai ở núi Nam-nhạc vẫn còn đài kinh... –  Kinh Lăng Nghiêm  Tông Thông, Nhẫn Tế thiền sư  dịch.)

Mãi cho tới đầu thế kỉ thứ 8, ngài  Bát Lạt Mật Đế mới đem  Kinh Thủ Lăng Nghiêm  truyền đến Trung-quốc. Nguyên vì bấy giờ  bộ kinh  ấy bị cấm truyền ra khỏi Ấn-độ, nên các trạm gác  biên giới  kiểm soát  rất  gắt gao, ngài phải đem  bộ kinh  ấy đi ba lần mới qua lọt biên giới. Hai lần đầu, dù ngài dấu kĩ đến thế nào, các quan viên biên phòng vẫn khám xét ra. Vì là người xuất gia, ngài đã không bị  xử phạt, nhưng vẫn bị đuổi về, không cho đi ra khỏi nước. Tuy vậy, ngài vẫn quyết chí  đi nữa. Lần này, không còn cách nào khác, ngài bèn chép lại  bản kinh  ấy với chữ thật nhỏ, trên những miếng da thật mỏng, cuộn lại, rồi xẻ bắp tay của chính mình ra, nhét bộ “kinh da” vào trong đó, và may kín lại. Đợi  cho đến khi vết thương  hoàn toàn  lành lặn, ngài lại ra đi. Lần này thì  bộ kinh  đã không bị khám phá, cho nên ngài đã được phép rời Ấn-độ. Ngài theo đường hàng hải, đến Quảng-châu (Trung-quốc) vào năm 705 (đời vua Đường Trung-tông). Sau khi gặp được chư tăng  ở chùa Chế-chỉ, Quảng-châu, ngài mới cho biết  là ngài đã mang được bộ  Kinh Thủ Lăng Nghiêm  đến đây. Ai nghe cũng đều  vui mừng, vì đó là điều  mọi người  từng mong đợi  từ hơn trăm năm nay. Khi được hỏi bộ kinh  ở đâu, ngài mới rạch cánh tay theo vết may cũ, lấy bộ “kinh da” từ trong ấy ra. Máu chảy dầm dề, phải rửa thật sạch sẽ, bấy giờ  bộ kinh mới  hiện ra  tỏ rõ. Liền đó,  bộ kinh đã được dịch ra Hán văn ngay tại chùa Chế-chỉ. Sau khi  bộ kinh  này được dịch xong, ngài liền xuống thuyền  trở về  Thiên-trúc đểchịu tội với vua, vì đã  trái lệnh, tự ý đem  Kinh Lăng Nghiêm  truyền sang Trung-quốc.

*

Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm  này, tại Trung-hoa, từ các đời Đường, Tống  đến nay, đã có hàng trăm nhà chú giải. Khi có  ý định  dịch  bộ kinh này ra Việt ngữ,  chúng tôi  may mắn  có được quyển  Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh  Giảng Nghĩa  của  pháp sư  Viên Anh  (1878-1953, người Phúc-kiến, Trung-quốc),  vì vậy,  chúng tôi  đã  y theo  phần “chánh văn” trong  tác phẩmnày để dịch; và phần “giảng nghĩa” của  pháp sư  cũng giúp ý cho  chúng tôi  rất nhiều trong lúc dịch.  Ngoài ra, chúng tôi  cũng  tham khảo  hai bản Việt dịch khác của hai bậc dịch giả  tiền bốimà  chúng tôi  đang có trong tủ sách  gia đình, đó là bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm  của  bác sĩ  Tâm Minh  LÊ ĐÌNH THÁM (1897-1969, người Điện-bàn, Quảng-nam, VN) dịch, và bộ  Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông  của  thiền sư  NHẪN TẾ (1889-1951, chùa Tây-tạng, Bình-dương, VN) dịch.

Trang 5 sửa

Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong nguyên bản Hán văn, được chia làm 10 quyển, nhưng không có  tiêu đề  cho mỗi quyển. Nay dịch ra Việt văn,  chúng tôi  xin mạo muội đặt  tiêu đề  cho mỗi quyển ấy, để quí vị đồng tu nắm được ý tổng quát của nội dung từng quyển trong khi  đọc tụng.

Ý Kinh cao sâu  mầu nhiệm, biển học  mênh mông, mà khả năng  hiểu biết  của  chúng tôi thì quá cạn cợt, cho nên sự  diễn đạt  chắc chắn  có lắm sai sót.  Chúng tôi  rất mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc  thiện tri thức  cao minh.

Việc dịch kinh  này ra tiếng Việt, nếu có được chút ít  công đức  nào, xin  thành tâm  nguyện đemhồi hướng  cho  chúng sinh,  tiêu trừ vọng tưởng,  tăng trưởng  lòng tin thanh tịnh, sớm  thành tựuđạo quả  Vô Thượng Bồ Đề.

Nam Mô  Thập Phương  Thường Trụ Tam Bảo

tác đại chứng  minh 

Cung kính  giới thiệu,

Miền Tây Gia-nã-đại,  mùa An Cư  năm 2011

Cư sĩ  HẠNH CƠ

CUNG BẠCH

Con chí thành  đảnh lễ

Đức Thích Ca  Thế Tôn

Đấng Vô Thượng Pháp Vương

Bậc Đạo Sư  ba thừa

Cha Lành khắp  ba cõi

Vì thương đàn con dại

Nói kinh Thủ Lăng Nghiêm

Chỉ bày thật  rõ ràng

Đâu là  tâm chân  thường

Đâu là nguồn  vọng tưởng

Khiến cho ngàn vạn ức

Các thính chúng  hiện tiền

Chứng ngộ  tánh  Bồ Đề

Thoát luân hồi  sáu nẻo

Trang 6 sửa

Để báo đáp  ơn Phật

Nay con xin  phát tâm

Dịch kinh  Lăng Nghiêm này

Ra ngôn từ  nước Việt

Mong truyền bá  rộng rãi

Trong Phật tử  Việt-nam

Được cơ duyên  hành trì

Thắp sáng đèn  trí tuệ

Lời Phật cao sâu quá

Tâm con còn  tối tăm

Chắc chắn  có  sai lầm

Cúi lạy  đức Thế Tôn

Xin xót thương  tha thứ

Con nguyện cùng  thiện hữu

Siêng năng thường  đọc tụng

Bỏ vọng tưởng  đảo điên

Về bản tâm  chân thường


Nếu có chút  phước đức

Xin nguyện đem  hồi hướng

Cho chúng sinh  và con

Phiền não  sạch nghiệp tiêu

Chóng lên bờ  giải thoát


Nam Mô  Hiện Tọa  Đạo Tràng  Thuyết Kinh Giáo Chủ

Bổn Sư Thích  Ca  Mâu Ni  Phật

Nam Mô  Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm  Kinh

Nam Mô  Khải Giáo  A Nan Đà  Tôn Giả


Miền Tây Gia-nã-đại,  mùa An Cư  năm 2011

Ưu-bà-tắc giới  đệ tử  Hạnh Cơ

kính lạy

KINH

ĐẠI PHẬT ĐẢNH

Trang 7 sửa

NHƯ LAI  MẬT NHÂN

TU CHỨNG  LIỄU NGHĨA

CHƯ BỒ TÁT  VẠN HẠNH

THỦ LĂNG NGHIÊM  (1)


Đời Đường,  Sa môn  Bát Lạt Mật Đế  (người Trung Thiên-trúc)

chủ tọa  Đạo Tràng  Phiên Dịch, tụng tiếng Phạn.

Sa môn  Di Già  Thích Ca  (người nước Ô-trành)

dịch Phạn văn ra Hán văn.

Sa môn  Hoài Địch  (người Trung-hoa) hiệu chính, chứng nghĩa.

Bồ-tát giới  đệ tử  Phòng Dung  (người Trung-hoa)

nhuận văn, chép thành  bản kinh  hiện hành.(2)