Thỏa thuận khung

trang định hướng Wikimedia

Trong bối cảnh đàm phán, một thỏa thuận/ hiệp định khung là một thỏa thuận giữa hai bên thừa nhận rằng các bên chưa đi đến thỏa thuận cuối cùng về tất cả các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa họ, nhưng đã thỏa thuận về đủ vấn đề để tiến tới mối quan hệ, với các chi tiết tiếp theo sẽ được đồng ý trong tương lai.

Trong bối cảnh mua sắm, một thỏa thuận khung là một thỏa thuận giữa một hoặc nhiều doanh nghiệp hoặc tổ chức, "mục đích của nó là thiết lập các điều khoản điều chỉnh hợp đồng sẽ được trao trong một khoảng thời gian nhất định, đặc biệt là về giá cả và, khi thích hợp, số lượng dự kiến".[1]

Hiệp định khung quốc tế sửa

 
Thượng nghị sĩ George Mitchell tại Tel Aviv, ngày 26 tháng 7 năm 2009

Trong luật quốc tế, một thỏa thuận như vậy giữa các quốc gia hoặc các nhóm có thể thừa nhận rằng họ không thể đạt được thỏa thuận đầy đủ về tất cả các vấn đề, nhưng sẵn sàng tưởng niệm một cấu trúc để có thể giải quyết một số bất đồng.[2]

Khi mô tả nỗ lực đạt được thỏa thuận giữa IsraelPalestine, Thượng nghị sĩ George J. Mitchell giải thích:

Một thỏa thuận khung không phải là một thỏa thuận tạm thời. Nó chi tiết hơn tuyên bố nguyên tắc, nhưng ít hơn hiệp ước đầy đủ. Mục đích của nó là thiết lập các thỏa hiệp cơ bản cần thiết để cho phép các bên thêm nhiều thông tin (flesh out) và hoàn thành một thỏa thuận toàn diện nhằm chấm dứt xung đột và thiết lập một nền hòa bình lâu dài.[3]

Tham gia vào một thỏa thuận khung có thể chuyển quyền lập pháp từ các quốc gia sang một cơ quan toàn thể, và có thể chuyển cơ sở để hình thành sự đồng ý với các chuẩn mực và tiêu chuẩn mới đạt được thông qua các cuộc đàm phán của họ.[4] Việc thực hiện các thỏa thuận khung bắt nguồn từ những năm 1950 với một thỏa thuận liên quan đến tị nạn giữa ColombiaPeru.[2]

Một số hiệp ước (accord) quốc tế được đặc trưng như các thỏa thuận khung:

Hiệp định khung trong nước sửa

Các thỏa thuận khung phi quốc tế bao gồm:

Mua sắm sửa

Các doanh nghiệp, đặc biệt là các cơ quan hợp đồng công, có thể tham gia vào các thỏa thuận khung với một hoặc nhiều nhà cung cấp, trong đó quy định các điều khoản và điều kiện áp dụng cho bất kỳ hợp đồng tiếp theo nào và đưa ra điều khoản lựa chọn và chỉ định nhà thầu bằng cách tham khảo trực tiếp các điều khoản và điều kiện đã thỏa thuận hoặc bằng cách tổ chức một cuộc thi chỉ mời các đối tác tham gia thỏa thuận khung để gửi các đề xuất thương mại cụ thể.[5]

Trong lĩnh vực công, một số Cơ quan Mua hàng Trung ương tồn tại với mục đích bao gồm việc tạo và quản lý các thỏa thuận khung tuân thủ Chỉ thị Mua sắm của EU.[6]

Tham khảo sửa

  1. ^ Public Contract Regulations 2015, Regulation 33(2)
  2. ^ a b Shabtai Rosenne, “The Framework Agreement as the Basis for the Jurisdiction of the International Court of Justice and Some Problems of Language”, in S. Rosenne, Essays on International Law and Practice (2007), pp. 161–170.
  3. ^ George J. Mitchell, quoted in Elliott Abrams, "Three mistakes the U.S. must not make in the Israeli-Palestinian peace talks, Washington Post (September 4, 2010).
  4. ^ Jutta Brunnée, "Reweaving the Fabric of International Law?: Patterns of Consent in Environmental Framework Agreements", in Rüdiger Wolfrum and Volker Röben (eds), Developments of International Law in Treaty Making (2005), p. 102.
  5. ^ European Commission. “Framework contracts”.
  6. ^ Southern Universities Purchasing Consortium, Membership Benefits Lưu trữ 2019-10-18 tại Wayback Machine, accessed 23 May 2019