Hirohito

vị Thiên hoàng thứ 124 của Nhật Bản
(Đổi hướng từ Thiên Hoàng Chiêu Hòa)

Thiên hoàng Chiêu Hòa (昭和天皇 (Chiêu Hòa Thiên hoàng) Shōwa tennō?, (1901-04-29)29 tháng 4, 1901 - (1989-01-07)7 tháng 1, 1989), huý danhHirohito (裕仁 (Dụ Nhân)?), là vị Thiên hoàng thứ 124 của Nhật Bản theo danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông là Thiên hoàng từ năm 1926 đến 1989, có thời gian trị vì dài hơn bất cứ một Thiên hoàng nào khác trong lịch sử Nhật Bản, và là vị Thiên hoàng cuối cùng ủng hộ sự thần thánh hoá cho hoàng đế của Nhật Bản. Trong cuộc đời ông đã chứng kiến không ít sự kiện quan trọng trong lịch sử nước Nhật.[1]

Chiêu Hòa Thiên Hoàng
昭和天皇
Thiên hoàng của Đế quốc Nhật BảnNhật Bản Quốc
Chiêu Hòa Thiên hoàng năm 1956
Thiên hoàng thứ 124 của Nhật Bản
Trị vì25 tháng 12 năm 19267 tháng 1 năm 1989
(62 năm, 13 ngày)
Lễ đăng quang và Lễ tạ ơn10 tháng 11 năm 1928 (ngày lễ đăng quang)
14 tháng 1115 tháng 11 năm 1928 (ngày lễ tạ ơn)
Thủ tướngTanaka Giichi
Hamaguchi Osachi
Wakatsuki Reijirō
Inukai Tsuyoshi
Takahashi Korekiyo (quyền)
Saitō Makoto
Okada Keisuke
Hirota Kōki
Hayashi Senjūrō
Fumimaro Konoe
Hiranuma Kiichirō
Abe Nobuyuki
Mitsumasa Yonai
Fumimaro Konoe
Hideki Tōjō
Kuniaki Koiso
Kantarō Suzuki
Higashikuni Naruhiko
Kijūrō Shidehara
Tetsu Katayama
Hitoshi Ashida
Shigeru Yoshida
Ichirō Hatoyama
Tanzan Ishibashi
Nobusuke Kishi
Hayato Ikeda
Eisaku Satō
Kakuei Tanaka
Takeo Miki
Takeo Fukuda
Masayoshi Ōhira
Masayoshi Itō (quyền)
Zenkō Suzuki
Yasuhiro Nakasone
Noboru Takeshita
Tiền nhiệmThiên hoàng Đại Chính
Kế nhiệmThiên hoàng Bình Thành
Quan Nhiếp Chính
Tại vị25 tháng 11 năm 1921 – 25 tháng 12 năm 1926
(5 năm, 30 ngày)
Thiên hoàngThiên hoàng Đại Chính
Tiền nhiệmNijō Nariyuki
Kế nhiệmChức vụ để trống hoặc bị bãi bỏ
Thông tin chung
Sinh(1901-04-29)29 tháng 4, 1901
Cung Thanh Sơn, Tokyo,  Đế quốc Nhật Bản
Mất7 tháng 1, 1989(1989-01-07) (87 tuổi)
Đại cung Ngự sở Xuy Thượng, Tokyo,  Nhật Bản
An táng24 tháng 2 năm 1989
Musashino no Misasagi (Tokyo)
Hoàng hậu
Hậu duệ
Tên thật
Showa Hirohito
Tên hiệu
Michi no miya
Niên hiệu
Chiêu Hòa: 25 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 1 năm 1989
Hoàng tộcHoàng gia Nhật Bản
Hoàng gia caKimi ga Yo
Thân phụThiên hoàng Đại Chính
Thân mẫuTrinh Minh hoàng hậu
Nghề nghiệpHoàng đế, Chính trị gia, Nhà sinh vật học biển
Tôn giáoThần đạo
Chữ ký

Mặc dù được biết tới bên ngoài Nhật Bản với tên riêng Hirohito, các tài liệu của Nhật Bản hiện nay chỉ sử dụng tên Thiên hoàng Chiêu Hòa để nói tới ông vì Chiêu Hòa vừa là niên hiệu duy nhất trong thời gian Thiên hoàng ở ngôi, và cũng là thụy hiệu sau khi qua đời của ông. Tại Nhật Bản việc sử dụng tên riêng (Hirohito) để nói tới vị Thiên hoàng bị cho là một hành động phạm thượng.[2]

Chiêu Hòa là triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Nhật Bản. Trong thời kỳ này, xã hội Nhật có sự thay đổi lớn lao. Trước thời Chiêu Hòa, Nhật Bản đã trở thành một đất nước giàu mạnh nhờ cuộc Duy Tân Minh Trị được thực hiện từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên Nhật vẫn còn là một nhà nước nông nghiệp với các cơ sở công nghiệp vẫn còn hạn chế.[1] Trong những năm 1930, việc quân sự hoá nước Nhật đã dẫn tới việc Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, châu Á - Thái Bình Dương và tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai. Thiên hoàng Chiêu Hòa, với tư cách là người đứng đầu quốc gia và quân đội Nhật, đã tuyên bố nước Nhật đầu hàng vô điều kiện trước quân Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945.

Thiên hoàng Hirohito sống vào thời kỳ đặc biệt quan trọng thứ hai trong lịch sử cận đại Nhật Bản, sau cuộc Duy Tân của Thiên hoàng Minh Trị năm xưa.[1] Sau chiến tranh, Thiên hoàng bắt tay vào việc tái thiết Nhật Bản trong khi đất nước bị chiếm đóng. Ngày 3 tháng 11 năm 1946, Hiến pháp mới của Nhật được ban bố. Hiệp ước có hiệu lực vào ngày 3 tháng 5 năm 1947, đã quy định Thiên hoàng chỉ là "Biểu tượng của quốc gia, và cho sự hoà hợp của dân tộc", chứ không có quyền lực chính trị.[3] Công cuộc tái thiết đã khiến Nhật Bản trở thành một quốc gia dân chủ với mức độ đô thị hóa cao và là một trong các quốc gia đứng đầu thế giới về công nghiệpkhoa học kỹ thuật. Sự "thần kỳ" của nước Nhật thời bấy giờ đã khiến cho các nước khác thực sự ngạc nhiên và ngưỡng mộ.[1]

Ngoài ra, ông cũng là một nhà nghiên cứu sinh học thực hiện một số công trình về sinh vật học biển. Ông qua đời năm 1989Hoàng thái tử Akihito lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Bình Thành.

Thiếu thời sửa

 
Hoàng tôn Hirohito (1902).

Hoàng tôn Hirohito sinh ra tại cung Thanh Sơn (Aoyama) ở thủ đô Tōkyō, là con trai cả của Hoàng thái tử Yoshihito[4] và Thái tử phi Sadako, sau này là Trinh Minh Hoàng hậu. Thuở bé, ông có tước hiệu là Thân vương Michi (迪宮 (Địch cung) Michi no miya?). Năm 1912, Thiên hoàng Minh Trị qua đời, Yoshihito lên ngôi Thiên hoàng, lấy niên hiệu là Đại Chính. Ngày 2 tháng 11 năm 1916, Hirohito chính thức được phong làm Hoàng thái tử (Tōgū-gogakumonsho); nhưng một nghi lễ tấn phong không hoàn toàn cần thiết cho việc xác nhận ông là người thừa kế hoàng vị.[5]

Hoàng tử Hirohito học tiểu học tại hệ tiểu học của trường Gakushuin từ năm 1908 đến năm 1914. Bắt đầu từ năm 1914, ông được giáo dục tại một trường của Hoàng gia dành cho thái tử để sau này nhận trọng trách trị vì đất nước.

Sau khi tốt nghiệp năm 1921, Hirohito thực hiện chuyến viếng thăm châu Âu trong vòng sáu tháng, đến Vương quốc Anh, Pháp, Ý, Hà LanBỉ. Với chuyến viếng thăm này, ông trở thành thành viên của Hoàng gia Nhật Bản đi ra bên ngoài nước Nhật.

Thiên hoàng Đại Chính lúc bấy giờ đau ốm về thần kinh. Vì thế, ngay sau khi trở về Nhật Bản, Hirohito đã trở thành nhiếp chính quan bạch, đích thân đảm đương việc triều chính thay phụ hoàng. Hirohito thay mặt phụ hoàng điều hành triều chính. Trong thời gian ông chấp chính, nhiều sự kiện quan trọng đã diễn ra:

Gia quyến sửa

 
Hirohito và Công nương Nagako Kuni, tức Thiên hoàng Chiêu Hòa và Hoàng hậu Hương Thuần sau này.

Ngày 26 tháng 1 năm 1924, Hoàng tử Hirohito kết hôn với Nữ vương Nagako, con gái cả của Vương tước Kuni Kuniyoshi đồng thời là em họ xa của ông. Họ có hai người con trai và năm người con gái:

  1. Nội thân vương Shigeko, tước hiệu thuở bé là Teru no miya (照宮成子 (Chiếu Cung Thành Tử) teru no miya Shigeko?), còn gọi là Nội thân vương Teru, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1925 – mất ngày 23 tháng 7 năm 1961; kết hôn vào ngày 10 tháng 10 năm 1943 với Vương tước Higashikuni Morihiro (6 tháng 5 năm 1916 – 1 tháng 2 năm 1969), con trai trưởng của Vương tước Higashikuni Naruhiko và vợ là Vương phi Toshiko, cựu Nội thân vương Yasu - con gái thứ tám của Thiên hoàng Minh Trị, trở thành Vương phi Shigeko. Bà mất địa vị thành viên Hoàng gia vào ngày 14 tháng 10 năm 1947;
  2. Nội thân vương Sachiko, tước hiệu thuở bé là Hisa no miya (久宮祐子 (Cửu Cung Hữu Tử) hisa no miya Sachiko?), còn gọi Nội thân vương Hisa sinh ngày 10 tháng 9 năm 1927 – mất ngày 8 tháng 3 năm 1928;
  3. Nội thân vương Kazuko, tước hiệu thuở bé là Taka no miya (孝宮和子 (Hiếu Cung Hòa Tử) taka no miya Kazuko?), tức cựu Nội thân vương Taka, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1929 – mất ngày 28 tháng 5 năm 1989; ngày 21 tháng 5 năm 1950 kết hôn với Takatsukasa Toshimichi (26 tháng 8 năm 1923 – 27 tháng 1 năm 1966), con trai trưởng của Nobusuke; và là con nuôi của Naotake.
  4. Nội thân vương Atsuko, tước hiệu thuở bé là Yori no miya (順宮厚子 (Thuận Cung Hậu Tử) yori no miya Atsuko?), sinh ngày 7 tháng 3 năm 1931; kết hôn ngày 10 tháng 10 năm 1952 với Ikeda Takamasa (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1927) - con trai trưởng của cựu Hầu tước Ikeda Nobumasa;
  5. Hoàng Thái tử Akihito, tước hiệu thuở bé là Tsugu no miya (継宮明仁 (Kế Cung Minh Nhân) tsugu no miya Akihito?), nên còn gọi là Thân vương Tsugu, sau trở thành Thiên hoàng thứ 125 của Nhật với niên hiệu Heisei. Ngài sinh ngày 23 tháng 12 năm 1933; kết hôn ngày 10 tháng 4 năm 1959 với Shōda Michiko (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1934) - con gái trưởng của Shōda Hidesaburo - cựu chủ tịch của Công ty Nisshin Flour Milling;
  6. Thân vương Masahito, tước hiệu thuở bé là Yoshi no miya (義宮正仁 (Nghĩa Cung Chính Nhân) yoshi no miya Masahito?), sinh ngày 28 tháng 11 năm 1935, sau có tước hiệu Hitachi no miya (常陸宮?) từ ngày 1 tháng 10 năm 1964, còn gọi Thân vương Hitachi; kết hôn ngày 30 tháng 9 năm 1964 với Tsugaru Hanako (sinh ngày 19 tháng 7 năm 1940) - con gái thứ tư của cựu Bá tước Tsugaru Yoshitaka;
  7. Nội thân vương Takako, tước hiệu thuở bé là Suga no miya (清宮貴子 (Thanh Cung Quý Tử) suga no miya Takako?), tức cựu Nội thân vương Suga, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1939; kết hôn ngày 3 tháng 3 năm 1960 với Shimazu Hisanaga - con trai của cựu Hầu tước Shimazu Hisanori. Họ có một đứa con trai tên là Yoshihisa.

Với cuộc cải cách Hoàng gia Nhật do Mỹ thực hiện vào tháng 10 năm 1947, Nội thân vương Higashikuni phải rời khỏi Hoàng gia. Các Nội thân vương Kazuko, Atsuko và Takako thì phải rời khỏi Hoàng gia theo những điều khoản trong Bộ luật Hoàng gia Nhật vào thời điểm họ kết hôn.

Lên ngôi Thiên hoàng sửa

 
Thiên hoàng Chiêu Hòa sau lễ tấn phong năm 1928, trong trang phục Sokutai.

Ngày 25 tháng 12 năm 1926, Hirohito lên nối ngôi phụ hoàng Yoshihito vừa mới qua đời. Người ta nói Thái tử Hirohito đã nhận được quyền thừa kế ngôi báu (senso).[6] Ông lấy niên hiệu là "Chiêu Hòa" (Shōwa), kết thúc Đại Chính. Vài ngày sau, cố Thiên hoàng Yoshihito được đặt thụy hiệu là "Đại Chính Thiên hoàng". Theo truyền thống Nhật Bản, người ta không được nói đến tên thật của vị Thiên hoàng mới, mà chỉ được gọi là "Thiên hoàng Bệ hạ" (天皇陛下 tennō heika?), hoặc ngắn gọn hơn là "Bệ hạ" (陛下 heika?). Khi viết, Thiên hoàng được chính thức gọi là "Kim thượng Thiên hoàng" (今上天皇 kinjō tennō?).

Vào tháng 11 năm 1928, Hirohito chính thức lên ngôi Thiên hoàng sau lễ sokui,[6] tức là "lễ tấn phong" hay "lễ đăng quang" (Shōwa no tairei-shiki); nhưng nghi lễ chính thức này giống như một sự khẳng định với công chúng rằng Hoàng gia đã truyền đời Tam Chủng Thần Khí (Sanshu no Jingi) từ nhiều thế kỷ nay,[7].[8]


Phần đầu tiên của triều đại Hirohito diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và sự gia tăng quyền lực quân sự trong chính phủ thông qua cả các biện pháp pháp lý và ngoài pháp luật. Quân đội Đế quốc Nhật BảnHải quân Đế quốc Nhật Bản nắm giữ phủ quyết quyền lực trong việc thành lập nội các từ năm 1900. Từ năm 1921 đến năm 1944, đã xảy ra 64 vụ bạo lực chính trị riêng biệt.

Hirohito thoát khỏi vụ ám sát trong gang tấc bởi một quả lựu đạn được ném bởi một nhà hoạt động độc lập Triều Tiên, Lee Bong-chang, tại Tokyo vào ngày 9 tháng 1 năm 1932, trong Sự cố Sakuradamon.

Một trường hợp đáng chú ý khác là vụ ám sát Thủ tướng Inukai Tsuyoshi ôn hòa vào năm 1932, đánh dấu sự kết thúc của sự kiểm soát dân sự đối với quân đội. Sự cố ngày 26 tháng 2, một nỗ lực đảo chính quân sự, diễn ra vào tháng 2 năm 1936. Nó được thực hiện bởi các sĩ quan Quân đội cấp dưới của phe Kōdōha, những người có quyền sự thông cảm của nhiều sĩ quan cấp cao trong đó có Yasuhito, Hoàng tử Chichibu, một trong những anh trai của Hirohito. Cuộc nổi dậy này xảy ra do phe quân phiệt mất đi sự ủng hộ chính trị trong cuộc bầu cử Chế độ ăn kiêng. Cuộc đảo chính dẫn đến việc sát hại một số quan chức cấp cao của chính phủ và quân đội.

Khi Cảnh sát trưởng Aide-de-camp Shigeru Honjō thông báo cho ông về cuộc nổi dậy, Hirohito ngay lập tức ra lệnh dập tắt cuộc nổi dậy và gọi các sĩ quan là "kẻ nổi loạn". " (bōto). Ngay sau đó, ông ra lệnh cho Bộ trưởng Lục quân Yoshiyuki Kawashima đàn áp cuộc nổi dậy trong vòng một giờ. Anh ấy yêu cầu Honjō báo cáo cứ sau 30 phút. Ngày hôm sau, khi được Honjō cho biết rằng bộ chỉ huy cấp cao đã đạt được rất ít tiến bộ trong việc tiêu diệt quân nổi dậy, Hoàng đế nói với ông rằng "Bản thân tôi, sẽ lãnh đạo Sư đoàn Konoe và khuất phục họ." Cuộc nổi dậy đã bị đàn áp theo lệnh của ông vào 29 tháng 2.[9]

Huyền thoại thần thánh Thiên hoàng sửa

Theo Hiến pháp Nhật Bản 1889, Thiên hoàng Chiêu Hòa có nhiều quyền hành. Quyền lực của Thiên hoàng căn cứ trên thần tích là Hoàng đế Nhật Bản thuộc dòng dõi của Thiên Chiếu Đại Thần (Amaterasu-ōmikami) xưa nay cai quản nước Nhật. Do nguồn gốc linh thiêng này, dân Nhật nhận Thiên hoàng như một vị thần linh. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực Thiên hoàng có tính cách tượng trưng hơn là thực quyền. Là hoàng đế trong chế độ quân chủ lập hiến, Thiên hoàng không tham dự vào các quyết định chính trị và tách biệt hẳn, không công khai phát biểu chính kiến nào cả về quốc sự. Thông lệ là Thiên hoàng nhất thể phê chuẩn các chính sách do các giới chức bên chính phủ soạn ra. Những luật ban hành đều nhân danh Thiên hoàng, nhưng Thiên hoàng Chiêu Hòa thực tế không can dự vào những quyết định đó.

Vai trò trong Chiến tranh thế giới thứ hai sửa

 
Thiên hoàng trong bộ quân phục.
 
Thiên Hoàng Hirohito cưỡi Shirayuki trong một cuộc tuần tra của Quân đội vào ngày 8 tháng 1 năm 1938.

Trong thời kỳ đầu trị vì của Thiên hoàng Chiêu Hòa, quân đội Hoàng gia Nhật Bản đã giành được ảnh hưởng chính trị đáng kể. Năm 19311932, Quân Quan Đông (đơn vị quân đồn trú ở vùng Mãn Châu của Trung Quốc) đã chiếm Mãn Châu Quốc mà không cần sự chấp thuận trước của chính phủ Nhật Bản. Về mặt cá nhân, Thiên hoàng thỉnh thoảng vẫn lộ ra vẻ không hài lòng về quyền lực đang tăng của quân đội. Chẳng hạn như tháng 2 năm 1936 ông đã hạ lệnh đàn áp các sĩ quan quân đội cấp tiến đang nổi dậy chống chính phủ dân sự ở Tokyo. Dù quan điểm như thế, Thiên hoàng Chiêu Hòa vẫn ít có hành động ngăn chặn việc quân đội Nhật Bản đang dần tiến đến một cuộc chiến toàn diện với Trung Quốc xảy ra năm 1937 (Chiến tranh Trung-Nhật thứ hai). Việc Thiên hoàng xuất hiện trước công chúng với bộ quân phục, theo dõi diễn tập quân sự hoặc duyệt quân trên con bạch mã của mình đã làm tăng cường sự ủng hộ chiến tranh của nhân dân Nhật.

Vào tháng 7 năm 1939, Hirohito tranh cãi với anh trai mình, Hoàng tử Chichibu, về việc có nên ủng hộ Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản hay không, và khiển trách Bộ trưởng quân đội, Seishirō Itagaki.[10] Nhưng sau thành công của Wehrmacht ở Châu Âu, Hirohito đã đồng ý tham gia liên minh. Vào ngày 27 tháng 9 năm 1940, bề ngoài là dưới sự lãnh đạo của Hirohito, Nhật Bản đã trở thành đối tác ký kết của Hiệp ước ba bên với ĐứcÝ hình thành Cường quốc Trục. Các mục tiêu cần đạt được đã được xác định rõ ràng: tự do tiếp tục chinh phục Trung Quốc và Đông Nam Á, không gia tăng lực lượng quân sự của Mỹ hoặc Anh trong khu vực và sự hợp tác của phương Tây "trong việc mua lại hàng hóa cần thiết cho Đế quốc của chúng ta".[11]

Vào ngày 5 tháng 9, Thủ tướng Konoe đã đệ trình một cách không chính thức bản dự thảo quyết định cho Hirohito, chỉ một ngày trước Hội nghị Hoàng gia mà tại đó nó sẽ chính thức được thực thi.

Việc bành trướng của quân đội Nhật Bản trong thập niên 1930 đã dẫn đến việc Nhật Bản tham chiến vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tháng 12 năm 1941, khi các máy bay chiến đấu của Nhật Bản đã bất ngờ tấn công hạm đội hải quân Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng tại Hawaii. Dù Thiên hoàng Chiêu Hòa đã không sốt sắng trong việc quyết định tham chiến, ông cũng đã hài lòng bởi một loạt các chiến công của quân đội Nhật Bản sau chiến thắng Trân Châu Cảng và ông đã phát triển một mối liên kết mạnh mẽ với tướng Tōjō Hideki, bộ trưởng chiến tranh. Đến đầu mùa Hè năm 1945, sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh, thất bại dường như là điều sắp xảy ra đối với quân Nhật. Chính phủ Nhật Bản đã chia rẽ sâu sắc giữa các lãnh đạo quân đội và hải quân và các quan chức dân sự Nhật Bản, những người muốn thương lượng cho hòa bình. Thiên hoàng có vẻ như nghiêng về phía phe chủ hòa nhưng ông không đứng ra hòa giải bế tắc giữa phe chủ chiến và phe chủ hòa cho đến giữa tháng 8, sau khi Hoa Kỳ đã thả hai quả bom nguyên tử xuống các thành phố HiroshimaNagasakiLiên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản Suzuki Kantaro đã hỏi ý kiến Thiên hoàng Chiêu Hòa liệu Nhật có nên tiếp tục chiến đấu vì hòa bình, và ông đã quyết định chấp nhận yêu cầu của Đồng Minh "đầu hàng vô điều kiện" bao gồm trong Tuyên bố Potsdam ban hành tháng 7. Thiên hoàng Chiêu Hòa đã phá vỡ tiền lệ im lặng của Thiên hoàng trước đây và đã thông báo sự đầu hàng của Nhật Bản trên đài phát thanh phát ngày 15 tháng 8 năm 1945 (giờ Nhật Bản).

Chiêu Hòa và các cố vấn của mình sợ rằng ông có thể bị xét xử về tội ác chiến tranh, đã cố đặt ông ở xa các mối liên hệ với sự lãnh đạo quân sự thời chiến. Nhưng Douglas MacArthur, tướng Mỹ đặc trách chỉ huy các lực lượng chiếm đóng của Đồng Minh đã cảm thấy rằng việc đặt Thiên hoàng vào đúng cương vị sẽ giúp giải quyết ổn thỏa sự dân chủ hóa của Nhật Bản. MacArthur đã thấy vị Nhật hoàng này là một biểu tượng của sự ổn định và hòa hợp có giá trị đối với dân Nhật và ông đảm bảo rằng Thiên hoàng Chiêu Hòa sẽ không bị truy tố ở phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh bắt đầu năm 1946.

Vai trò và hình ảnh sau chiến tranh sửa

 
Bức ảnh của Gaetano Faillace chụp Tướng MacArthur và Hirohito tại Tổng hành dinh Đồng minh ở Tokyo, ngày 27 tháng 9 năm 1945

Trong một nỗ lực hồi sinh nền quân chủ, tháng 1 năm 1946, Thiên hoàng Chiêu Hòa đã thông báo trên đài truyền thanh rằng ông không thừa nhận thần thoại rằng Thiên hoàng là thần thánh. Năm 1947, ông đã công bố một bản hiến pháp sửa đổi cho Nhật Bản do lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ soạn và đã được Quốc hội Nhật Bản thông qua, theo đó chủ quyền được giao cho nhân dân và quy định Thiên hoàng chỉ là một biểu tượng của dân tộc.

Giữa thời kỳ 1946 và 1951 Thiên hoàng Chiêu Hòa đã đi khắp Nhật Bản, thăm các trường học, nhà máy, hầm mỏ và các nơi công cộng khác để khảo sát sự tiến bộ của công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh và đã giành được sự nể phục của dân chúng đối với thiết chế quân chủ. Báo chí quốc gia Nhật Bản, lần đầu tiên được cho phép chụp ảnh hoàng gia, đã mô tả hoàng gia là nồng ấm và gần gũi, thích thú cuộc sống bình thường của giai cấp trung lưu. Cuộc điều tra công luận thập niên 1950 đã cho kết quả thái độ tích cực chung của công chúng đối với Thiên hoàng.

 
Thiên hoàng Hirohito đến thăm Hiroshima vào năm 1947. Có thể nhìn thấy Khu tưởng niệm Hòa bình Hiroshima mái vòm ở phía sau.

Trong suốt quãng đời còn lại của mình, Hirohito là một nhân vật tích cực trong đời sống Nhật Bản và thực hiện nhiều nhiệm vụ thường gắn liền với một nguyên thủ quốc gia theo hiến pháp. Ông và gia đình duy trì sự hiện diện mạnh mẽ trước công chúng, thường xuyên tổ chức các cuộc dạo chơi công cộng và xuất hiện trước công chúng tại các sự kiện và nghi lễ đặc biệt. Ví dụ, vào năm 1947, Thiên hoàng đã có chuyến thăm công khai tới Hiroshima và có bài phát biểu trước đám đông đông đảo nhằm khuyến khích người dân thành phố.[12] Địa vị và hình ảnh của ông trở nên tích cực mạnh mẽ ở Hoa Kỳ.[13]

Chuyến thăm nước ngoài lần thứ 124 dưới thời trị vì của Thiên hoàng Chiêu Hòa.[14]
Năm Ngày đi Ngày về nước Thăm Đi với Tư cách
1971
(Chiêu Hòa 46)
27 tháng 9 14 tháng 10   Bỉ,   Anh,   Tây Đức, (  Hoa Kỳ),
  Đan Mạch,   Pháp,   Hà Lan,   Thụy Sĩ
Hoàng hậu Kōjun Tình bạn quốc tế
1975
(Chiêu Hòa 50)
30 tháng 9 14 tháng 10   Hoa Kỳ Hoàng hậu Kōjun Tình bạn quốc tế
 
Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon cùng Thiên hoàng Hirohito và Hoàng hậu Nagako tại Anchorage (27 tháng 9 năm 1971)
 
Thiên hoàng Hirohito và Hoàng hậu Nagako đến Hà Lan (8 tháng 10 năm 1971)

Là một vị hoàng đế của một nước dân chủ, ông đã tiếp tục bày tỏ các chính kiến riêng của mình nhưng không gây ảnh hưởng chính thức lên các công việc của chính phủ. Ông thực hiện những công việc lễ nghi theo quy định của bản hiến pháp năm 1947 như làm chủ tọa khi khai mạc và bế mạc quốc hội; tiếp các đại sứ nước ngoài trình quốc thư; tham dự các sự kiện quốc gia bao gồm Thế vận hội Tokyo 1964Triển lãm Quốc tế 1970. Ông cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại hình ảnh ngoại giao của Nhật Bản, ra nước ngoài gặp gỡ nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài, trong đó có Nữ hoàng Elizabeth II (1971) và Tổng thống Gerald Ford (1975). Ông không chỉ là vị thiên hoàng trị vì đầu tiên đi ra ngoài Nhật Bản mà còn là người đầu tiên gặp Tổng thống Hoa Kỳ. Năm 1971, Thiên hoàng Chiêu Hòa đã đi một vòng 7 nước châu Âu và trở thành vị Thiên hoàng đang trị vì đầu tiên đi ra nước ngoài. Trong các chuyến đi này ông gặp phải cuộc biểu tình thù địch ở các nước châu Âu. Ông được đón tiếp thân thiện hơn trong chuyến thăm Hoa Kỳ năm 1975. Tuy nhiên, nghi vấn về trách nhiệm của ông trong vai trò của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn còn mạnh mẽ.

Trong năm 1971 (Chiêu Hòa 46), Hirohito lại đến thăm bảy quốc gia châu Âu, bao gồm Vương quốc Anh, Hà Lan và Thụy Sĩ, trong 17 ngày từ 27 tháng 9 đến 14 tháng 10. Trong trường hợp này, một chiếc máy bay đặc biệt Douglas DC-8 của Japan Airlines đã được sử dụng không giống như chuyến thăm trước đó bằng tàu. Mặc dù không được tính là một chuyến thăm nhưng vào thời điểm đó, Hirohito đã ghé qua Anchorage, Alaska như một điểm dừng chân và gặp Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon từ Washington, DC, tại Nhà chỉ huy quân đội quận Alaska ở [[Elmendorf Air] Căn cứ Lực lượng]].

Cuộc hội đàm giữa Thiên hoàng Hirohito và Tổng thống Nixon ngay từ đầu đã không được lên kế hoạch, bởi ban đầu điểm dừng ở Mỹ chỉ nhằm tiếp nhiên liệu để thăm châu Âu. Tuy nhiên, cuộc gặp đã được quyết định một cách vội vàng theo yêu cầu của Hoa Kỳ. Mặc dù phía Nhật Bản đã chấp nhận yêu cầu, Bộ trường Ngoại giao Fukuda Takeo đã gọi điện công khai cho đại sứ Nhật Bản tại Hoa Kỳ Ushiba Nobuhiko, người đã thúc đẩy các cuộc đàm phán, nói rằng "điều đó sẽ gây cho tôi rất nhiều rắc rối. Chúng tôi muốn sửa chữa nhận thức của bên kia." Vào thời điểm đó, Bộ trưởng Ngoại giao Fukuda lo lắng rằng cuộc hội đàm của Tổng thống Nixon với Hirohito sẽ được sử dụng để sửa chữa mối quan hệ Nhật - Mỹ đang xấu đi, và ông lo ngại rằng tiền đề của hệ thống biểu tượng hoàng đế có thể dao động.[15][16]

Trong những năm tháng cuối đời, người ta thường thấy ông ngồi ở chỗ ngồi Thiên hoàng ở các trận thi đấu vật sumo, cẩn thận ghi chép những người thua và người thắng. Ông đã viết nhiều sách về sinh học hải dương, một đề tài suốt đời ông quan tâm. Thiên hoàng Chiêu Hòa qua đời năm 1989 sau một thời gian ốm đau dài. Thái tử Akihito lên thay, đặt niên hiệu là Bình Thành.

Xem thêm sửa

Chú thích sửa

  1. ^ a b c d “Câu chuyện về Nhật hoàng Hirohito và công cuộc xây dựng nước Nhật Bản hiện đại”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2010.
  2. ^ Ở Nhật Bản, một đương kim Nhật hoàng được gọi là "Thiên hoàng Bệ hạ" (天皇陛下 Tennō Heika?) hoặc "Kim thượng Bệ hạ" (今上陛下 Kinjō Heika?).
  3. ^ Hiến pháp Nhật Bản năm 1947
  4. ^ Ponsonby-Fane, Richard. (1959). The Imperial House of Japan, p. 337.
  5. ^ Ponsonby-Fane, p. 338; 'see File:Crowd awaiting Crown Prince Tokyo Dec1916.jpg, New York Times. 3 tháng 12 năm 1916.
  6. ^ a b Varley, H. Paul, ed. (1980). Jinnō Shōtōki ("A Chronicle of Gods and Sovereigns: Jinnō Shōtōki of Kitabatake Chikafusa" translated by H. Paul Varley), p. 44. [A distinct act of senso is unrecognized prior to Emperor Tenji; and all sovereigns except Jitō, Yōzei, Go-Toba, and Fushimi have senso and sokui in the same year until the reign of Go-Murakami;] Ponsonby-Fane, p. 350.
  7. ^ Ponsonby-Fane, p. 349.
  8. ^ Ponsonby-Fane, pp. 136–137.
  9. ^ Mikiso Hane, Emperor Hirohito and His Chief Aide-de-camp, The Honjō Diary, 1983; Honjō Nikki, Hara Shobō, 1975.
  10. ^ Hidenari 1991, tr. 106–108; Wetzler 1998, tr. 25, 231.
  11. ^ Japan's decision for war : records of the 1941 policy conferences. Nobutaka Ike. Stanford, CA: Stanford University Press. 1967. ISBN 0-8047-0305-1. OCLC 236283.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  12. ^ “Hirohito | Biography, Full Name, Surrender, & Facts”. Encyclopedia Britannica. 25 tháng 4 năm 2023.
  13. ^ Brands, Hal (2006). “The Emperor's New Clothes: American Views of Hirohito after World War II”. Historian. 68 (1): 1–28. doi:10.1111/j.1540-6563.2006.00133.x. S2CID 145812761.
  14. ^ 『皇族 天皇家の近現代史』小田部雄次 中公新書 2011
  15. ^ “米側の昭和天皇政治利用に外相が「迷惑千万」 外交文書公開”. MSN産経ニュース. 7 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 3 năm 2013. Truy cập 7 tháng 3 năm 2013.
  16. ^ “外交文書公開に関する備忘録|教員からのメッセージ|教員・院生からのメッセージ|東洋英和女学院大学大学院”. www.toyoeiwa.ac.jp.

Tham khảo sửa

  • Behr, Edward Hirohito: Behind the Myth, Villard, New York, 1989. - A controversial book that posited that Hirohito had a more active role in WWII than had publicly been portrayed; it contributed to the re-appraisal of his role.
  • Bix, Herbert P. (2000). Hirohito and the Making of Modern Japan. New York: HarperCollins. 10-ISBN 0-06-019314-X; 13-ISBN 978-0-06-019314-0; OCLC 247018161 A scholarly and copiously sourced look at the emperor's role.
  • Drea, Edward J. (1998). “Chasing a Decisive Victory: Emperor Hirohito and Japan's War with the West (1941-1945)”. In the Service of the Emperor: Essays on the Imperial Japanese Army. Nebraska: University of Nebraska Press. ISBN 0-8032-1708-0.
  • Fujiwara, Akira, Shōwa Tennō no Jū-go Nen Sensō (Shōwa Emperor's Fifteen-year War), Aoki Shoten, 1991. ISBN 4-250-91043-1 (Based on the primary sources)
  • Hoyt, Edwin P. Hirohito: The Emperor and the Man, Praeger Publishers, 1992. ISBN 0-275-94069-1
  • Kawahara, Toshiaki Hirohito and His Times: A Japanese Perspective, Kodansha International, 1997. ISBN 0-87011-979-6 (Japanese official image)
  • Mosley, Leonard Hirohito, Emperor of Japan, Prentice-Hall, Englewood Cliffs, 1966. ISBN 1-111-75539-6 ISBN 1-199-99760-9, The first full-length biography, it gives his basic story.
  • Ponsonby-Fane, Richard Arthur Brabazon. (1959). The Imperial House of Japan. Kyoto: Ponsonby Memorial Society. OCLC 194887
  • Wetzler, Peter Hirohito and War: Imperial Tradition and Military Decision Making in Prewar Japan, University of Hawaii Press, 1998. ISBN 0-8248-1925-X
  • Yamada, Akira, Daigensui Shōwa Tennō (Shōwa Emperor as Commander in Chief), Shin-Nihon Shuppansha, 1994. ISBN 4-406-02285-6 (Based on the primary sources)

Liên kết ngoài sửa