Thuộc địa New Zealand
Thuộc địa New Zealand (tiếng Anh: Colony of New Zealand) là một thuộc địa của Anh đã tồn tại trong New Zealand 1841-1907, tạo ra như là một thuộc địa vương thất. Quyền lực của Chính phủ Anh được trao cho một thống đốc, nhưng thuộc địa được trao quyền tự trị vào năm 1852. Hiến pháp năm 1852 được khánh thành sau khi quốc hội đầu tiên được bầu vào năm 1853 và chính phủ đầu tiên của New Zealand được thành lập vào năm 1856. Thuộc địa của New Zealand có ba thủ đô: Old Russell (1841), Auckland (1841–1865) và Wellington (sau 1865). Năm 1907, thuộc địa trở thành thống trị của New Zealand với sự thừa nhận rõ ràng hơn về chính quyền tự trị trong Đế quốc Anh.
Thuộc địa New Zealand
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
1841–1907 | |||||||||||
Quốc ca: "God Save the King/Queen" Chúa phù hộ Quốc vương/Nữ hoàng | |||||||||||
Lãnh thổ thuộc địa New Zealand | |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Vị thế | Thuộc địa của Anh | ||||||||||
Thủ đô | Old Russell (1841) Auckland (1841–1865) Wellington (1865–1907) | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Anh, Tiếng Māori | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Thuộc địa vương thất (1841–1852) Thuộc địa tự trị (1852–1907) | ||||||||||
Quân chủ | |||||||||||
• 1841–1901 | Victoria | ||||||||||
• 1901–1907 | Edward VII | ||||||||||
Thống thống | |||||||||||
• 1841–1842 | William Hobson (đầu tiên) | ||||||||||
• 1904–1907 | William Plunket (cuối cùng) | ||||||||||
Thủ tướng | |||||||||||
• 1856 | Henry Sewell (đầu tiên) | ||||||||||
• 1906–1907 | Joseph Ward (cuối cùng) | ||||||||||
Lập pháp | Đại Hội đồng1 | ||||||||||
• Thượng viện | Hội đồng lập pháp | ||||||||||
• Hạ viện | Hạ viện | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Thời kỳ | Thời kỳ Victoria | ||||||||||
• Phân tách từ Thuộc địa New South Wales | 1 tháng 7 1841 | ||||||||||
30 tháng 6 năm 1852 | |||||||||||
• Địa vị thống trị | 26 tháng 9 năm 1907 | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Bảng New Zealand | ||||||||||
Mã ISO 3166 | NZ | ||||||||||
| |||||||||||
1. Đại hội đồng lần đầu tiên ngồi vào năm 1854, theo quy định của Đạo luật Hiến pháp New Zealand. |
Thành lập
sửaSau khi công bố chủ quyền đối với New Zealand từ Sydney vào tháng 1 năm 1840, Đại úy William Hobson đến New Zealand và ban hành việc loan báo như vậy trên 01 tháng 2 năm 1840.[1] Hiệp ước Waitangi sau đó đã được ký kết vào ngày 6 tháng 2 năm 1840, William Hobson tuyên bố Anh chủ quyền đối với các đảo New Zealand vào ngày 21 tháng 5 năm 1840 trong hai tuyên bố chính thức riêng biệt. Trong tuyên bố đầu tiên, Hobson tuyên bố chủ quyền của Anh đối với Đảo Bắc. Cơ sở cho yêu sách đối với Đảo Bắc là Hiệp ước Waitangi giữa người Māori và Vương quốc Anh. Trong phiên bản tiếng Anh của hiệp ước, Māori đã nhượng lại chủ quyền để đổi lấy các quyền, đặc quyền và bảo vệ việc trở thành một chủ thể của Anh. Tuy nhiên, bản dịch tiếng Māori của hiệp ước được gọi là kawanatanga thường được dịch là quản trị hơn là chủ quyền và điểm này vẫn là chủ đề của nhiều tranh cãi và tranh luận chính trị.[2] Trong tuyên bố thứ hai, Hobson tuyên bố chủ quyền của Anh đối với Đảo Nam và Đảo Stewart trên cơ sở "phát hiện đầu tiên" của thuyền trưởng James Cook vào năm 1769.
Ban đầu, New Zealand là một phần của Thuộc địa New South Wales, và Trung úy Hobson chịu trách nhiệm trước cấp trên của mình, Thống đốc bang New South Wales.[3] Bằng thư bằng sáng chế, chính phủ Anh đã ban hành Hiến chương về việc xây dựng thuộc địa New Zealand vào ngày 16 tháng 11 năm 1840.[3] Hiến chương tuyên bố rằng Thuộc địa New Zealand sẽ được thành lập như một thuộc địa của Vương quốc Anh từ New South Wales Ngày 1 tháng 7 năm 1841.[3]
Thuộc địa vương thất
sửaVới việc thành lập thuộc địa vương thất, Hobson trở thành Thống đốc New Zealand. Các cơ quan đầu tiên của Chính phủ New Zealand cũng được thành lập để hỗ trợ Thống đốc: Hội đồng điều hành và hội đồng lập pháp.[4]
Hội đồng điều hành bao gồm tổng chưởng lý, thư ký thuộc địa và thủ quỹ thuộc địa. Hội đồng lập pháp bao gồm thống đốc, Hội đồng điều hành và ba thẩm phán hòa bình do thống đốc chỉ định.[4] Hội đồng Lập pháp có quyền ban hành Pháp lệnh, các công cụ theo luật định.[5]
Thuộc địa được chia thành ba tỉnh: tỉnh New Ulster (Đảo Bắc), tỉnh New Munster (Đảo Nam) và tỉnh New Leinster (Đảo Stewart).
Xem thêm
sửaTham khảo
sửa- ^ Before Hobson. T Simpson. Blythwood Press. Wellington. 2015.
- ^ “Differences between the texts – Read the Treaty”. NZ History. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2016.
- ^ a b c Moon, Paul (2010). New Zealand Birth Certificates – 50 of New Zealand's Founding Documents. AUT Media. ISBN 9780958299718.
- ^ a b “Crown colony era – the Governor-General”. ngày 30 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
- ^ “NO. 21. – CHARTER FOR ERECTING THE COLONY OF NEW ZEALAND, AND FOR CREATING AND ESTABLISHING A LEGISLATIVE COUNCIL AND AN EXECUTIVE COUNCIL, AND FOR GRANTING CERTAIN POWERS AND AUTHORITIES TO THE GOVERNOR FOR THE TIME BEING OF THE SAID COLONY”. Victoria University of Wellington. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
Nguồn
sửa- Peter Spiller et al. (2001, 2nd ed.) A New Zealand Legal History (Brookers: Wellington).