Trà Giang (diễn viên)

diễn viên điện ảnh Việt Nam

Trà Giang (sinh năm 1942 tại Quảng Ngãi) là một diễn viên điện ảnh và là đại biểu quốc hội người Việt Nam nổi tiếng trong khoảng thập niên 1960 đến 1980. Bà tham gia nhiều bộ phim nổi tiếng và đoạt nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế như: Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm. Trà Giang được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1984 và là diễn viên điện ảnh đầu tiên được phong tặng danh hiệu này.[1]

Nghệ sĩ Nhân dân
Trà Giang
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa V, VI, VII
Nhiệm kỳ6 tháng 4 năm 1975 – 19 tháng 4 năm 1987
12 năm, 13 ngày
Ủy banVăn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng
Thông tin cá nhân
SinhNguyễn Thị Trà Giang
11 tháng 12 năm 1942 (80 tuổi)
Quảng Ngãi, Liên bang Đông Dương
Giới tínhnữ
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệp
  • Diễn viên
  • họa sĩ
  • đại biểu Quốc hội
Bố mẹNguyễn Văn Khánh
ChồngNguyễn Bích Ngọc
Con cáiNguyễn Bích Trà
Lĩnh vựcĐiện ảnh
Danh hiệuNghệ sĩ Nhân dân (1984)
Sự nghiệp điện ảnh
Năm hoạt động1962 - 1989
Đào tạoTrường Điện ảnh Việt Nam
Vai diễnDịu trong Vĩ tuyến 17 ngày và đêm
Nhân trong Ngày lễ Thánh
Hương trong Huyền thoại về người mẹ
Giải thưởng
Liên hoan phim quốc tế Moskva
Diễn viên nữ xuất sắc nhất
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4
Nữ diễn viên chính xuất sắc
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8
Nữ diễn viên chính xuất sắc

Website
Trà Giang trên IMDb

Tiểu sử và sự nghiệp sửa

Trà Giang tên thật là Nguyễn Thị Trà Giang. Bà sinh năm 1942 tại Quảng Ngãi, trước lúc tập kết ra Bắc năm 1954, gia đình bà sống ở Bình Lâm (thuộc Bình Thuận). Cuộc sống của gia đình thời điểm này rất khó khăn, vất vả. Bố của bà đi công tác thường xuyên và ít ghé nhà, lương một trưởng đoàn nghệ thuật của ông không đủ cho cuộc sống gia đình.[2] Để có kế sinh nhai, mẹ và bà ngoại Trà Giang phải làm bánh ít để bán. Sau năm 1954, theo gia đình các cán bộ miền Nam, Trà Giang cũng được đưa ra miền Bắc và theo học ở Trường Học sinh miền Nam.[3]

Năm 1959, bà thi đỗ trường múa, nhưng vì nghe theo lời bố, bà được tuyển sinh và được theo học lớp Diễn viên khóa đầu tiên của Trường Điện ảnh Việt Nam cùng thời với Phi Nga, Thụy Vân, Lâm Tới, Trần Phương, Thế Anh, Minh Đức,...[4]

Năm 1961, ở tuổi 19, bà bắt đầu đóng phim, vai diễn đầu tiên của bà là một vai phụ trong phim Vợ chồng A Phủ. Trà Giang được nhận 1 vai quần chúng nhỏ, chỉ kịp lướt qua trên màn ảnh và không được ghi danh. Sau đó bà đóng phim sự hướng dẫn của giáo viên, nghệ sĩ nhân dân Liên Xô Azhdar Ibragimov với vai chị Kiên trong phim Một ngày đầu thu (đạo diễn Huy Vân).[2] Đây vai diễn chính thức đầu tiên của bà sau khi tốt nghiệp. Ra trường, bà về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam từ năm 1962.[2]

Năm 1962, bộ phim Một ngày đầu thu hoàn thành. Cũng trong năm này, khi đã là một diễn viên chuyên nghiệp, Trà Giang đóng vai chính trong phim Chị Tư Hậu (đạo diễn Phạm Kỳ Nam).[5] Bộ phim này đã được trao giải Bạc tại Liên hoan phim quốc tế Moskva lần thứ 3 năm 1963 và giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1970 tại Hà Nội.[2][6]

Năm 1972, khi 30 tuổi, bà đóng vai chính nổi tiếng nhất của mình - với đạo diễn Hải Ninh trong bộ phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm.[7] Lúc này bà cùng họa sĩ Lê Minh Hiền, đạo diễn Bùi Đình Hạc, nhà quay phim Đoàn Quốc, và đạo diễn Hải Ninh đại diện Việt Nam tham dự Liên hoan phim quốc tế Moskva. Năm 1973, bộ phim này được trình chiếu trong chương trình tranh giải của Liên hoan phim Quốc tế Moskva lần thứ 8.[8] Trà Giang đã đoạt giải diễn viên nữ xuất sắc nhất tại Liên hoan phim này. Phim cũng được giải của Hội đồng Hòa bình Thế giới.[9]

 
Trà Giang và Thế Anh trong phim Mối tình đầu năm 1977.

Năm 1976, bà tham gia phim Ngày lễ Thánh với vai Nhân, vai diễn này giúp bà đoạt giải nữ diễn viên chính xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4.[2] Bộ phim đã được giải bông sen bạc tại liên hoan phim Việt Nam năm 1977.[10]

Năm 1988, bà tiếp tục giành giải Nữ diễn viên xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 qua hai vai diễn trong bộ phim Hoàng Hoa Thám của đạo diễn Trần Phương và bộ phim Huyền thoại về người mẹ của đạo diễn Bạch Diệp, bà cũng là nữ diễn viên hiếm hoi chiến thắng 2 lần ở mảng này.[2][11]

Năm 1989, bà đóng vai nữ biệt động Hiền trong bộ phim Dòng sông hoa trắng, đây là vai diễn điện ảnh cuối cùng của bà. Sau này bà chỉ tham gia một số phim video và giảng dạy ở trường điện ảnh cho đến khi nghỉ hưu.[12]

Năm 1984, ở tuổi 42, bà là một trong năm nghệ sĩ điện ảnh được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt đầu tiên.[13] Bà cũng từng là Ủy viên Hội đồng các nghệ sĩ có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trong việc xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dânNghệ sĩ ưu tú cho những người hoạt động nghệ thuật có nhiều sáng tạo nghệ thuật và nhiều cống hiến phục vụ nhân dân (Theo Quyết định số 118/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 11 tháng 5 năm 1982).[14]

 
Trà Giang và đạo diễn Bạch Diệp.

Trong thập niên 1960 đến 1980 là khoảng thời gian bà hoạt động sôi nổi nhất, được các đạo diễn giao cho nhều vai chính, phụ trong nhiều phim như: Làng nổi (1965), Lửa rừng (1966), Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn (1969), Em bé Hà Nội (1973), Mối tình đầu (1977), Người chưa biết nói (1979), Cho cả ngày mai (1981), Trừng phạt (1984), Đứng trước biển (1985),... Trung bình mỗi năm bà đóng một phim và thường xuyên được tham dự các Liên hoan phim Quốc tế.[15][16] Nhiều bộ phim bà đóng như Chị Tư Hậu, Làng nổi,... còn được chiếu rộng rãi ở Liên Xô và các nước trên thế giới.[17]

Bên cạnh điện ảnh, Trà Giang còn thử sức trong lĩnh vực hội họa và đã có triển lãm tranh vào năm 2004 tại Thành phố Hồ Chí Minh.[18] Ngoài ra, bà còn liên tiếp 7 lần là thành viên Hội đồng Giám khảo cuộc thi Hoa hậu Việt Nam. Trà Giang còn là đại biểu Quốc hội khóa V, VI và VII từ năm 1975 đến năm 1987.[19]

Cùng với các đạo diễn, diễn viên gồm Nguyễn Ngọc Quỳnh, Ngô Mạnh Lân, Phương Thanh, Hải Ninh, Thanh Tú, Nguyễn Hồng Sến, Trần Vũ, Bùi Đình Hạc, Bạch Diệp, Lâm Tới bà có tên trong Bách khoa toàn thư điện ảnh Liên Xô.[20]

Các phim đã tham gia sửa

Năm Phim Vai diễn Đạo diễn Ghi chú
1962 Một ngày đầu thu Kiên Huy Vân, NSND Hải Ninh
1962 Chị Tư Hậu Tư Hậu NSND Phạm Kỳ Nam [a]
1965 Làng nổi Cốm NSND Trần Vũ, NSND Huy Thành
1966 Lửa rừng Y Đăm NSND Phạm Văn Khoa
1969 Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn Việt Hà NSND Nguyễn Khắc Lợi, Hoàng Thái
1972 Vĩ tuyến 17 ngày và đêm Dịu NSND Hải Ninh [b]
1973 Bài ca ra trận Hiệu trưởng NSND Trần Đắc [c]
1974 Em bé Hà Nội[21] Mẹ Thu NSND Hải Ninh[22] [d]
1976 Ngày lễ Thánh Nhân NSND Bạch Diệp [e]
1977 Mối tình đầu Hai Lan NSND Hải Ninh [f]
1979 Người chưa biết nói Yến NSND Tuệ Minh
1981 Cho cả ngày mai Sáu Tâm Long Vân
1984 Đêm miền yên tĩnh Bà Tám NSND Trần Phương, Nguyễn Hữu Luyện
1984 Trừng phạt Giáng Hương NSND Bạch Diệp
1985 Đứng trước biển Chín Tâm NSND Trần Phương
1987 Huyền thoại về người mẹ Hương NSND Bạch Diệp [g]
1987 Hoàng Hoa Thám Bà Ba Cẩn NSND Trần Phương
1988 Kẻ giết người Bà Phượng Hoài Linh
1989 Dòng sông hoa trắng Hiền NSND Trần Phương

Sau này bà còn đóng một số phim video như:

Giải thưởng sửa

Năm Lễ trao giải Hạng mục Tác phẩm Kết quả Nguồn
1973 Liên hoan phim quốc tế Moskva Diễn viên nữ xuất sắc nhất Vĩ tuyến 17 ngày và đêm Đoạt giải [2]
1977 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4 Nữ diễn viên chính xuất sắc Ngày lễ thánh Đoạt giải [2]
1988 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 Huyền thoại về người mẹ,
Thủ lĩnh áo nâu (Hoàng Hoa Thám)
Đoạt giải [23]

Đời tư sửa

Bố của nghệ sĩ Trà Giang là nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Văn Khánh (1918 - 2012). Chồng của bà là Nghệ sĩ ưu tú, giáo sư âm nhạc Nguyễn Bích Ngọc, từng là phó giám đốc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh.[24] Hai người cưới nhau năm 1967. Sau khi kết hôn, Trà Giang và Bích Ngọc sống ở phòng dựng phim của Hãng Phim truyện Việt Nam, sau khi bộ phận dựng phim chuyển về số 4 Thụy Khuê.[24] Họ hạ sinh một người con gái là nghệ sĩ dương cầm Bích Trà vào năm 1973, sau này bà và chồng chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh và sống với nhau cho đến khi ông Ngọc mất vào năm 1999.[25][26]

Ghi chú sửa

  1. ^ Phim đoạt giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần II năm 1973.
  2. ^ Phim đoạt giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần II năm 1973.
  3. ^ Phim đoạt giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần III năm 1975.
  4. ^ Phim đoạt giải Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần III năm 1975.
  5. ^ Phim đoạt giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần IV năm 1977.
  6. ^ Phim đoạt giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần IV năm 1977.
  7. ^ Phim đoạt giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần VIII năm 1988.

Tham khảo sửa

  1. ^ “Nghệ sĩ nhân dân Trà Giang”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2010.
  2. ^ a b c d e f g h T.D (9 tháng 4 năm 2020). "Tháng năm rực rỡ" của những nữ diễn viên xuất sắc nhất điện ảnh Việt”. Người đưa tin. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021.
  3. ^ “NSND NGUYỄN TRÀ GIANG (TRÀ GIANG)”. Hội điện ảnh TP.HCM. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  4. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994).
  5. ^ Ngô Phương Lan (2005).
  6. ^ Băng Châu, Mai Trang (4 tháng 7 năm 2017). “Dàn diễn viên phim "Em bé Hà Nội" sau 43 năm công chiếu”. Dân trí. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023.
  7. ^ Hà Tùng Long (30 tháng 4 năm 2017). “Những bộ phim là niềm tự hào của Điện ảnh cách mạng Việt Nam”. Báo Dân Trí. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
  8. ^ “Sự nghiệp đạo diễn Hải Ninh”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  9. ^ “Nhan sắc mê đắm lòng người của NSND Trà Giang - huyền thoại điện ảnh Việt một thời”. Báo Nghệ An. 26 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021.
  10. ^ “Danh sách 154 tác giả có tác phẩm, công trình được tặng giải thưởng nhà nước về văn học, nghệ thuật”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2008.
  11. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 122.
  12. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát (2005), tr. 294.
  13. ^ Đỗ Văn Trụ & Phạm Vũ Dũng (2003), tr. 73.
  14. ^ Vũ Ngọc Phương, Đỗ Xuân Duy & Phạm Bá Lữ (2004), tr. 363.
  15. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 121.
  16. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 413.
  17. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 796.
  18. ^ Nhật Lam (30 tháng 7 năm 2004). “Khi người làm phim vẽ tranh”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
  19. ^ “Nữ đại biểu quốc hội từ khóa I đến khóa XI”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2010.
  20. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (ngày 10 tháng 11 năm 2007). “Nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam trong Bách khoa toàn thư điện ảnh Liên Xô”. Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2009.
  21. ^ Phương Ngọc (20 tháng 10 năm 2014). “Em bé Hà Nội - Bản hùng ca nhân văn”. Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023.
  22. ^ Cẩm Tú (20 tháng 12 năm 2019). “Tháng 12 nhớ "cha đẻ" của "Em bé Hà Nội". Tuổi trẻ Thủ đô. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023.
  23. ^ “Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 đã kết thúc”. Báo Lao Động. 13: 8. 31 tháng 3 năm 1988.
  24. ^ a b Lê Khắc Hân (27 tháng 6 năm 2017). “Ngọc-Trà-Giang: Tam tấu của cuộc đời”. Báo Công an nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2022.
  25. ^ Thanh Hải; Văn Việt (24 tháng 5 năm 2017). “Dấu ấn Nghệ sĩ dương cầm Nguyễn Bích Trà tại Anh”. Báo điện tử của Đài Truyền hình Việt Nam. Ban Truyền hình đối ngoại. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2022.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  26. ^ Cát Vũ (28 tháng 1 năm 2017). “Nghệ sĩ piano Bích Trà: Về với mẹ thôi...”. Báo Điện tử Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí Minh. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2022.

Đọc thêm sửa

Liên kết ngoài sửa