Trái phiếu chuyển đổi

Trong lĩnh vực tài chính, trái phiếu chuyển đổi hay nợ chuyển đổi (hoặc giấy nợ có thể chuyển đổi nếu có thời hạn trên 10 năm) là loại trái phiếu mà người nắm giữ có thể chuyển đổi thành một số lượng cổ phiếu phổ thông cụ thể của công ty phát hành hoặc tiền mặt có giá trị tương đương. Nó là một chứng khoán lai với các tính năng giống như nợ và vốn chủ sở hữu.[1] Nó có nguồn gốc từ giữa thế kỷ 19 và được các nhà đầu cơ thời kỳ đầu như Jacob LittleDaniel Drew sử dụng để chống lại lũng đoạn thị trường.[2]

Trái phiếu chuyển đổi thường được phát hành bởi các công ty có xếp hạng tín dụng thấp và tiềm năng tăng trưởng cao. Trái phiếu chuyển đổi cũng được coi là chứng khoán nợ bởi vì các công ty đồng ý đưa ra lãi suất cố định hoặc thả nổi như đối với trái phiếu thông thường đối với quỹ của nhà đầu tư. Để bù đắp cho việc có thêm giá trị thông qua quyền chọn chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi thường có lãi suất coupon thấp hơn lãi suất của khoản nợ không chuyển đổi tương tự. Nhà đầu tư nhận được lợi nhuận tiềm năng của việc chuyển đổi thành vốn chủ sở hữu trong khi bảo vệ phần giảm giá bằng dòng tiền từ các khoản thanh toán lãi coupon và hoàn vốn gốc khi đáo hạn. Những đặc tính này — và thực tế là trái phiếu chuyển đổi thường được giao dịch dưới giá thị trường[3] — tự nhiên phù hợp với ý tưởng về chênh lệch giá chuyển đổi, trong đó vị thế mua của trái phiếu chuyển đổi được cân bằng bằng vị thế bán trong vốn chủ sở hữu cơ bản.

Từ quan điểm của nhà phát hành, lợi ích chính của việc huy động tiền bằng cách bán trái phiếu chuyển đổi là giảm được lãi suất. Lợi thế của các công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi là nếu trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thì nợ của công ty sẽ biến mất. Tuy nhiên, để đổi lấy lợi ích từ việc giảm lãi, giá trị vốn chủ sở hữu của cổ đông bị giảm do việc pha loãng cổ phiếu dự kiến khi trái chủ chuyển đổi trái phiếu của họ thành cổ phần mới.

Trái phiếu chuyển đổi cũng là một phương tiện thường xuyên để đầu tư hạt giống vào các công ty khởi nghiệp như một dạng nợ chuyển đổi thành vốn chủ sở hữu trong một vòng đầu tư trong tương lai.[4] Nó là một phương tiện đầu tư lai, mang tính bảo vệ (có giới hạn) đối với khoản nợ ban đầu nhưng có lợi thế như vốn chủ sở hữu nếu công ty khởi nghiệp thành công, đồng thời tránh việc cần thiết phải định giá công ty ở giai đoạn quá sớm.

Tham khảo sửa

  1. ^ Scatizzi, Cara (tháng 2 năm 2009). “Convertible Bonds”. The AAII Journal. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2015.
  2. ^ Jerry W. Markham (2002). A Financial History of the United States: From Christopher Columbus to the Robber Barons. M. E. Sharpe. tr. 161. ISBN 0-7656-0730-1.
  3. ^ Ammann, Manuel; Kind, Axel; Wilde, Christian (2003). “Are Convertible Bonds Underpriced?: An Analysis of the French Market”. Journal of Banking and Finance. 27 (4): 635–653. doi:10.1016/S0378-4266(01)00256-4. SSRN 268470.
  4. ^ Gilson, Ronald; Schizer, David (2003). “Understanding Venture Capital Structure: A Tax Explanation for Convertible Preferred Stock”. Harvard Law Review. 116 (3): 874–916. doi:10.2307/1342584. JSTOR 1342584.

Liên kết ngoài sửa

[1]

  1. ^ Xiao, Tim (2013). “A simple and precise method for pricing convertible bond with credit risk”. Journal of Derivatives & Hedge Funds. 19 (4): 259–277. doi:10.1057/jdhf.2014.5.