USS Charles E. Brannon (DE-446)

USS Charles E. Brannon (DE-446) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Charles E. Brannon (1919–1942), phi công từng phục vụ cùng Liên đội Ném ngư lôi VT-8 trên tàu sân bay Hornet (CV-8), đã tử trận trong Trận Midway vào ngày 4 tháng 6, 1942 và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.[1][2] Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, rồi được huy động trở lại để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh từ năm 1951 đến năm 1960. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1969. Charles E. Brannon được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Tàu hộ tống khu trục USS Charles E. Brannon (DE-446) tại Trân Châu Cảng, Hawaii, tháng 2 năm 1962
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Charles E. Brannon
Đặt tên theo Charles E. Brannon
Xưởng đóng tàu Federal Shipbuilding and Dry Dock Company, Newark, New Jersey
Đặt lườn 13 tháng 1, 1944
Hạ thủy 23 tháng 4, 1944
Người đỡ đầu nữ Thiếu úy D. Brannon
Nhập biên chế 1 tháng 11, 1944
Tái biên chế 21 tháng 11, 1950
Xuất biên chế
Xóa đăng bạ 23 tháng 9, 1968
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 27 tháng 10, 1969
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp John C. Butler
Kiểu tàu tàu hộ tống khu trục
Trọng tải choán nước
  • 1.350 tấn Anh (1.372 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.745 tấn Anh (1.773 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93,3 m)
Sườn ngang 37 ft (11,3 m)
Mớn nước
  • 9 ft 4 in (2,8 m) (tiêu chuẩn)
  • 13 ft 4 in (4,1 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước Westinghouse với hộp số giảm tốc;
  • 2 × trục
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 24 kn (28 mph; 44 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 15 sĩ quan
  • 183 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • sonar QC;
  • radar SC dò tìm mặt biển;
  • radar SA dò tìm không trung
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo sửa

Lớp John C. Butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương.[3] Chúng có chiều dài chung 306 foot (93,3 m), mạn tàu rộng 36 foot 10 inch (11,2 m) và mớn nước 13 foot 4 inch (4,1 m),[1] trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.350 tấn Anh (1.372 t), và lên đến 1.745 tấn Anh (1.773 t) khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ.[4] Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất 12.000 mã lực càng (8.900 kW) và cho phép đạt được tốc độ tối đa 24 hải lý trên giờ (44 km/h; 28 mph). Nó có tầm hoạt động 6.000 hải lý (11.000 km; 6.900 mi) ở tốc độ đường trường 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph).[4]

Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51.[3] Ngoài ba ống phóng ngư lôi 21 inch (533 mm), vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog.[1] Con tàu được trang bị sonar kiểu QC,[4] radar dò tìm mặt biển SL[5] và radar dò tìm không trung SA.[6]

Charles E. Brannon được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Federal Shipbuilding and Dry Dock CompanyNewark, New Jersey vào ngày 13 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 4, 1944, được đỡ đầu bởi nữ Thiếu úy D. Brannon, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 11, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Donald W. Todd.[1][2][7]

Lịch sử hoạt động sửa

Thế Chiến II sửa

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda và sửa chữa sau chạy thử máy, Charles E. Brannon chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó khởi hành từ New York vào ngày 27 tháng 1, 1945, hộ tống các tàu chở hàng đi sang vùng kênh đào Panama, rồi băng qua kênh đào và tiếp tục ghé qua các quần đảo GalápagosSociety trước khi đi đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty vào ngày 15 tháng 3.[1]

Chuyển đến vịnh San Pedro, Philippines, Charles E. Brannon hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại trong phạm vi quần đảo Philippine, rồi đến cuối tháng 4 đã tham gia thành phần hộ tống cho lực lượng tấn công hướng sang khu vực Bắc Kalimantan, Borneo. Nó tuần tra ngoài khơi khu vực đổ bộ ở Tarakan từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 5, hỗ trợ cho cuộc đổ bộ và bắn hải pháo theo yêu cầu của lực lượng trên bộ. Sau đó từ ngày 10 tháng 6, nó tiếp tục hỗ trợ tương tự cho cuộc đổ bộ lên vịnh Brunei.[1]

Từ đầu tháng 7, Charles E. Brannon hoạt động hộ tống cho các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Philippines và Okinawa, và vẫn đang làm nhiệm vụ này khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Đến giữa tháng 9, nó tham gia vào lực lượng chiếm đóng hoạt động tại Trung Quốc, hoạt động trong vùng biển giữa Okinawa và Hong Kong, cho đến khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ. Về đến San Francisco, California vào ngày 1 tháng 2, 1946, nó được cho xuất biên chế tại San Diego, California vào ngày 15 tháng 6, 1946 và đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.[1][2][7]

1951 - 1960 sửa

Từ tháng 8, 1946, cho dù nằm trong thành phần dự bị, Charles E. Brannon được huy động vào việc huấn luyện cho nhân sự thuộc Hải quân Dự bị Hoa Kỳ, thực hiện những chuyến đi thực tập huấn luyện vào dịp cuối tuần hay trong mùa Hè dành cho các học viên sĩ quan dự bị. Nó được cho tái biên chế trở lại vào ngày 21 tháng 11, 1950,[1][2][7] nhưng vẫn tiếp tục nhiệm vụ huấn luyện dự bị; và khi được cho xuất biên chế lần sau cùng vào ngày 18 tháng 6, 1960,[1][2][7] nó tiếp tục phục vụ huấn luyện ngoài biên chế cho đến ngày 23 tháng 9, 1968, khi nó ngừng hoạt động đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng Bạ Hải quân.[2][7] Con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 27 tháng 10, 1969.[2][7]

Phần thưởng sửa

Charles E. Brannon được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2]

   
   
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II
Huân chương Phục vụ Phòng vệ Quốc gia
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Viễn chinh Lực lượng Vũ trang Huân chương Giải phóng Philippine

Tham khảo sửa

Chú thích sửa

  1. ^ a b c d e f g h i j Naval Historical Center. Charles E. Brannon (DE-446). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f g h Yarnall, Paul R. (19 tháng 12 năm 2019). “USS Charles E. Brannon (DE-446)”. NavSource.org. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.
  3. ^ a b Friedman 1982, tr. 141, 149.
  4. ^ a b c Friedman 1982, tr. 421.
  5. ^ Friedman 1981, tr. 149.
  6. ^ Friedman 1981, tr. 146.
  7. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “USS Charles E. Brannon (DE 446)”. uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.

Thư mục sửa

Liên kết ngoài sửa