Vũ Khoan
Vũ Khoan (sinh năm 1937) là một chính trị gia và là nhà ngoại giao Việt Nam, từng giữ chức vụ Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Thủ tướng phụ trách Kinh tế đối ngoại Việt Nam từ tháng 8 năm 2002 đến cuối tháng 6 năm 2006. Ông được nhiều người cho là có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam.
Vũ Khoan | |
---|---|
![]() | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 12 tháng 8 năm 2002 – 28 tháng 6 năm 2006 3 năm, 320 ngày |
Tiền nhiệm | Nguyễn Mạnh Cầm |
Kế nhiệm | Trương Vĩnh Trọng |
Vị trí | ![]() |
Nhiệm kỳ | tháng 4 năm 2001 – tháng 4 năm 2006 |
Bộ trưởng Bộ Thương mại | |
Nhiệm kỳ | 28 tháng 1 năm 2000 – 8 tháng 8 năm 2002 2 năm, 192 ngày |
Tiền nhiệm | Trương Đình Tuyển |
Kế nhiệm | Trương Đình Tuyển |
Vị trí | ![]() |
Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao | |
Nhiệm kỳ | 1990 – |
Vị trí | ![]() |
Thông tin chung | |
Sinh | 7 tháng 10, 1937 Phú Xuyên, Hà Đông, Liên bang Đông Dương |
Nơi ở | Nhà 27, đường 2/2 khu Nam Thành Công, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội. |
Đảng phái | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ | Hồ Thể Lan |
Xuất thân Thiếu sinh quânSửa đổi
Ông sinh ngày 7 tháng 10 năm 1937, quê ở huyện Phú Xuyên, Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Đông Dương, ông làm liên lạc viên cho chính phủ Việt Minh. Năm 1949, ông được đưa về Việt Bắc, theo học tại Trường Thiếu sinh quân Việt Nam. Năm 1951, ông được Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lựa chọn và sang học tại "Dục tài học hiệu Nam Ninh", sau chuyển sang "Dục tài học hiệu Nam Ninh-Quế Lâm" (còn gọi là trường Thiếu nhi Việt Nam tại Quảng Tây, Trung Quốc).
Hoạt động trong ngành ngoại giaoSửa đổi
Cuối năm 1954, khi chưa học xong lớp 7, ông được cử sang Liên Xô học tiếng Nga, học được 9 tháng thì được điều ra Đại sứ quán làm phiên dịch.[1]
Tham gia vào ngành ngoại giao từ năm 1956, khởi đầu từ vị trí phiên dịch, đồng thời theo học bổ túc tại Trường Sư phạm Leningrad; giữa năm 1961, ông được cử theo học tại Trường Đại học Quan hệ Quốc tế Matxcơva (MGIMO), ngành Kinh tế Quốc tế. Ông được kết nạp Đảng Lao động Việt Nam ngày 19 tháng 12 năm 1961 và trở thành đảng viên chính thức ngày 19 tháng 8 năm 1962.
Tuy nhiên, năm 1964, khi chưa tốt nghiệp, ông được điều về nước, công tác ở Bộ Ngoại giao làm các công tác nghiên cứu chiến lược đối ngoại, kinh tế quốc tế, tổ chức. Ông 4 lần làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô, đã từng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hữu nghị và làm việc tại Liên Xô (cũ), từng làm phiên dịch tiếng Nga cho các lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng khi làm việc với lãnh đạo Liên Xô như Leonid Brezhnev, Nikolai Podgorny, Alexey Kosygin,... Ông có mặt trong buổi ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Liên Xô - Việt Nam tại Điện Kremli vào năm 1978.
Ông lần lượt giữ các chức vụ: Tùy viên, Bí thư thứ Ba, Bí thư thứ Nhất, Tham tán, Tham tán Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô cho đến năm 1982.
Từ năm 1982, ông được rút về nước, lần lượt giữ các chức vụ Phó Vụ trưởng, rồi Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế, rồi Trợ lý Bộ trưởng Phụ trách về các vấn đề luật pháp, kinh tế và lãnh sự. Năm 1990, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, năm 1998, được phân công làm Thứ trưởng Thứ nhất Phụ trách Quan hệ với các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, quan hệ với ASEAN, ASEM, APEC, công tác nghiên cứu, hợp tác kinh tế, lãnh sự, pháp luật, báo chí, đào tạo. Năm 2000, ông được Chủ tịch nước phong hàm Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền.
Đẩy mạnh Việt Nam gia nhập WTOSửa đổi
Ngày 28 tháng 1 năm 2000, ông được phê chuẩn bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Thương mại trong Chính phủ Việt Nam,[2] kế nhiệm cho ông Trương Đình Tuyển chuyển sang làm Trưởng phái đoàn đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Ngày 8 tháng 8 năm 2002, ông được phê chuẩn bổ nhiệm Phó Thủ tướng, được phân công Phụ trách Kinh tế đối ngoại,[3] Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về APEC. Trên cương vị của mình, ông được nhiều người cho là có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam.
Ngày 27 tháng 6 năm 2006, ông được Quốc hội phê chuẩn miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng vì lý do sức khỏe. Sau khi thôi chức Phó Thủ tướng, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cử làm Đặc phái viên của Thủ tướng về đối ngoại,[4] Tổng Chỉ huy các hoạt động Tuần lễ cấp cao APEC 2006 Hà Nội cuối năm 2006.[5]
Ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng từ khóa VII đến khóa IX (1991-2006), Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX.[6] Ông cũng được bầu làm Đại biểu Quốc hội các khóa X, XI.[7]
Năm 2007, ông nghỉ hưu tại Hà Nội.
Phong tặngSửa đổi
Sự nghiệp của ông là bề dày với các cuộc thương thuyết đàm phán, khởi sự là hoà đàm Paris trong thời gian chiến tranh, sau đó vấn đề người di tản, việc Việt Nam gia nhập ASEAN và khu mậu dịch tự do của khối này, kế đến là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và một chặng đường dài với cuộc thương thuyết gia nhập WTO.
Ông là quan chức Nhà nước Việt Nam đầu tiên được vào Phòng Bầu Dục Nhà Trắng gặp gỡ Tổng thống Bill Clinton lúc bấy giờ, trong dịp Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ.
Để tôn vinh công lao của ông, Nhà nước Việt Nam đã trao tặng:
- Huân chương Độc lập hạng Nhất
- Hai Huân chương Lao động hạng Nhất
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì
- Hàm Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền
Ngoài ra, ông còn được chính phủ các nước trao tặng:
- Huân chương Hữu nghị các dân tộc (Liên Xô)
- Huân chương Tự do hạng Nhất (Lào)
- Huân chương Mặt trời mọc (Nhật Bản)[8]
Tự bình phẩm thành công và thất bạiSửa đổi
Những ân hận:
- Kiến trúc Hà Nội: "Lúc bấy giờ anh Khải có sai tôi đi họp ở Bộ Xây dựng. Lúc đó tôi đã kiên trì đề nghị đừng xây nhà cao tầng ở trung tâm Hà Nội, nhưng nghe chừng không được. Lỗi của ai thì tôi không biết, nhưng việc đó đẻ ra tình trạng tràn lan như thế này".
- Đường hướng phát triển các khu kinh tế và khu chế xuất: " "Lúc bấy giờ có khu Chu Lai, Vân Phong. Từ kinh nghiệm nước khác Tôi cũng đã đề xuất là muốn phát triển khu chế xuất, anh phải có "ắc quy" – năng lượng nạp vào thì mới bùng phát. Nếu anh bỏ bao nhiêu tiền ra mà không có năng lượng đó thì khu đó cũng chết thôi".
- Phân cấp cho địa phương về đầu tư nước ngoài nói riêng và đầu tư nói chung: "... phân cấp phải đi theo quy hoạch chung và năng lực cán bộ – đó là hai điều kiện cần có. Điều này tôi tính không hết mà chỉ thấy cần gỡ bỏ những thứ quá tập trung, quan liêu, tiêu cực,… Để cho kinh tế năng động lên thì phải phân cấp, nhưng mình nhìn không ra là để có được điều đó cần quy hoạch tổng thể rất chặt và năng lực nguồn nhân lực phải rất cao, để đâm ra bây giờ tung toé hết"
Những thành công:
- Đóng góp vào hội nhập về kinh tế: "từ vào ASEAN đến APEC. ASEM (Diễn đàn hợp tác Á – Âu) là tôi trực tiếp thực hiện, đề xuất và được chấp nhận, đi vào cuộc sống, góp phần nhỏ bé vào công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam".
- BTA (Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ): "Tôi không phải là người khởi đầu nhưng là người kết thúc. Phải đề xuất nhiều việc, cũng không đơn giản đâu, cuối cùng cũng ký được. Việc này đưa kim ngạch buôn bán của Việt Nam với Hoa Kỳ từ 700 triệu USD đến 2012 là 19 tỷ USD. Việc này tạo công ăn việc làm cho "nhiều người""
- Giải quyết một loạt vấn đề về biên giới lãnh thổ: "như trên bộ với Trung Quốc, vịnh Bắc Bộ, vùng chồng lấn với Malaysia, Thái Lan, Indonesia,… Việc này cũng góp phần giải quyết được vấn đề không gian, cương vực của đất nước để quản lý".
- Đề xuất mở rộng quan hệ quốc tế, cả song phương lẫn đa phương: " Cụ thể là tôi đã tiếp cận với Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tôi cũng trực tiếp phụ trách thực hiện. Tôi cũng thực hiện việc mở rộng quan hệ với Úc, Nhật. Với Nhật, tôi là người đi đàm phán đầu tiên, mà còn bí mật, để nhận ODA đầu tiên của họ về"
- Xúc tiến thương mại: " Trước đó, thời bao cấp, ta cứ ngồi chờ khách hàng đến mua. Khi về làm Bộ trưởng Bộ Thương mại, tôi ngạc nhiên sao ta lại cứ ngồi chờ thế này. Kinh tế thị trường thì phải đi chào hàng chứ. Mà chào hàng khi đó chưa ai phụ trách, nên từ đó mới đẻ ra xúc tiến thương mại, tiếp đến là xúc tiến đầu tư, xúc tiến du lịch".[9]
Gia đìnhSửa đổi
Ông lập gia đình với bà Hồ Thể Lan, nguyên Vụ trưởng Vụ Báo chí, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam và là con gái của Giáo sư Bác sĩ Hồ Đắc Di. Hai người quen nhau cùng khóa học sinh được cử đi học ở Liên Xô năm 1954.[10]
Tham khảoSửa đổi
- ^ Lê Ngọc Sơn, theo VFEJ. “Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan: Cả cuộc đời tôi là tự học”. hovuvovietnam.com. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan tham gia "Khi người ta trẻ" tháng 9”. Báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh | PLO.VN. 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ Nghị quyết 03/2002/NQ-QH11 ngày 8 tháng 8 năm 2002 của Quốc hội phê chuyển đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
- ^ “Ông Vũ Khoan làm đặc phái viên của Thủ tướng”. VnExpress. 21 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Thành công của APEC làm rạng rỡ thêm non sông Việt Nam”. Sài Gòn Giải Phóng Online. 24 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ Đồng chí Vũ Khoan; Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam[liên kết hỏng]
- ^ Tiểu sử tóm tắt ông Vũ Khoan trên trang web Quốc hội[liên kết hỏng]
- ^ “Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nhận Huân chương Mặt Trời mọc”. sggp.org.vn. 9 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ Bích Ngọc (13 tháng 2 năm 2013). “Ông Vũ Khoan và 3 điều tiếc nuối khi đương chức”. Báo Đất Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Nhớ về tình thầy trò Việt - Xô ngày ấy”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.
Liên kết ngoàiSửa đổi
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Vũ Khoan. |
- Diễn văn tại Hội thảo về WTO ở Hà Nội năm 2003
- Diễn văn khai mạc cuộc gặp các Bộ trưởng Thương mại APEC 2006 Lưu trữ 2006-10-05 tại Wayback Machine
- Trả lời phỏng vấn trong bàn tròn trực tuyến với VietNamNet