Vương quốc Bột Hải
Bột Hải (tiếng Hàn: 발해; Hanja: 渤海; Romaja: Palhae; McCune–Reischauer: Balhae, tiếng Trung: 渤海; bính âm: Bóhǎi, tiếng Nga: Пархэ, Бохай) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (Tae Choyŏng) từ sau khi Nhà nước Cao Câu Ly sụp đổ. Phạm vi lãnh thổ của quốc gia này tương ứng với phần lãnh thổ của nước Đông Phù Dư (ngày nay là hai tỉnh Cát Lâm, Liêu Ninh của Trung Quốc) và một phần vùng Viễn Đông của Nga.
Bột Hải
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||
698–926 | |||||||||||||
Lãnh thổ Bột Hải vào lúc lớn nhất năm 830 | |||||||||||||
Thủ đô | Núi Đông Mưu (698-742) Trung Kinh (742-756) Thượng Kinh (756-785) Đông Kinh (785-793) Thượng Kinh (793-926) | ||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Cao Câu Ly | ||||||||||||
Tôn giáo chính | Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Vu giáo | ||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||||||||
Vương | |||||||||||||
• 698 - 719 | Cao Vương | ||||||||||||
• 719 - 737 | Vũ Vương | ||||||||||||
• 737 - 793 | Văn Vương | ||||||||||||
• 818 - 830 | Tuyên Vương | ||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
Thời kỳ | Trung đại | ||||||||||||
• Thành lập | 698 698 | ||||||||||||
• Thượng Kinh thất thủ | 14 tháng 1 năm Bính Tuất[1] 28 tháng 2 năm 926 926 | ||||||||||||
| |||||||||||||
Hiện nay là một phần của | ![]() ![]() ![]() |
Tên tiếng Triều Tiên | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hangul | |||||||||
Hanja | |||||||||
| |||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||
Tiếng Trung | 渤海 | ||||||||
| |||||||||
Tên tiếng Nga | |||||||||
Tiếng Nga | Бохай | ||||||||
Latinh hóa | Bohai | ||||||||
Tên Tiếng Mãn | |||||||||
Bảng chữ cái tiếng Mãn | ᡦᡠᡥᠠᡳ | ||||||||
Chuyển tự | Puhai |
Lịch sửSửa đổi
Thành lậpSửa đổi
Bột Hải được nhắc tới sớm nhất trong tài liệu Cựu Đường thư - biên soạn trong năm 941-945. Miền Nam Mãn Châu cùng với cực Bắc của Triều Tiên trước đây thuộc về quốc gia Cao Câu Ly, một trong ba thế lực lớn thời Tam Quốc Triều Tiên. Năm 668, nhà nước Cao Câu Ly diệt vong trước cuộc tấn công của nhà Đường và Tân La. Tân La sáp nhập vùng đất ở phía Nam sông Đại Đồng vào lãnh thổ của mình và trở thành Tân La Thống nhất, còn nhà Đường thì đoạt lấy vùng lãnh thổ nằm ở phía Tây Mãn Châu.
Trong thời gian này, Đại Trọng Tượng (大仲象, Tae Chungsang), một bộ tướng cũ[2] của Cao Câu Ly[3] và là thủ lĩnh của khối cư dân Cao Câu Ly còn sót lại sau khi quốc gia này bị diệt vong, liên minh với thủ lĩnh của người Mạt Hạt là Khất Tứ Bỉ Vũ (乞四比羽) và cùng khởi nghĩa chống lại nhà Chu của Võ Tắc Thiên vào năm 698. Theo Tân Đường thư, Võ hoàng đã phái sứ giả sắc phong cho Đại Trọng Tượng là Chấn Quốc công và phong cho Khất Tứ Bỉ Vũ là Hứa Quốc công để yên lòng họ. Khất Tứ Bỉ Vũ đã từ chối chức danh Hứa Quốc công này. Võ hoàng phái Lý Giai Cố (李楷固) dẫn quân Chu tấn công Đại Trọng Tượng và Khất Tứ Bỉ Vũ.
Cả Đại Trọng Tượng và Khất Tứ Bỉ Vũ đều bị quân Chu của Lý Giai Cố giết chết, nhưng con trai của Tượng là Đại Tộ Vinh (大祚榮, 대조영, Tae Choyŏng), một cựu tướng của Cao Câu Ly[4][5] tiếp tục lãnh đạo liên quân Cao Câu Ly - Mạt Hạt chống lại nhà Chu. Đại Tộ Vinh đặt 1000 địa điểm mai phục, tiến hành đánh du kích, tập kích quân Chu của Lý Giai Cố 1000 lần. Trận đánh giữa Đại Tộ Vinh và quân nhà Chu của Lý Giai Cố rất ác liệt tại Cheonmun-ryeong (tiếng Trung: 天門嶺; Hán-Việt: Thiên Môn Lĩnh; bính âm: Tiānmén lǐng) cùng năm 698, và kết quả là quân của Đại Tộ Vinh đã chiến thắng. Để thực hiện giấc mơ của cha mình, Đại Tộ Vinh giành lấy 1 miền lãnh thổ rộng lớn của Mãn Châu ngày nay, lập ra vương quốc Đại Chấn (Daejin), tự xưng là Chấn vương, niên hiệu là Thiên Thống (Cheontong), xây dựng kinh thành tại gần núi Đông Mưu, nên thành cũng được đặt tên là Đông Mưu (nay thuộc tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc). Tin truyền hậu duệ của Cao Câu Ly với chí lực và võ nghệ cao cường đã xây thành ở núi Đông Mưu và chuẩn bị mở rộng đất đai vừa lan ra thì nhưng tàn dân thuộc vùng đất xưa của Cao Câu Ly liền nhanh chóng tụ tập, tạo nên cốt lõi cho nhà nước mới. Chấn vương Đại Tộ Vinh phái sứ giả sang Hãn quốc Hậu Đột Quyết lập liên minh chống nhà Chu với Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết.
Năm 699, Chấn vương Đại Tộ Vinh cho trích lọc những cái hay của các bộ luật, quốc pháp của nhà Đường, nước Bách Tế (Baekje) cũ, nước Cao Câu Ly (Goguryeo) cũ, nhà Chu, nước Tân La (Silla), nước Hãn quốc Hậu Đột Quyết, tộc Khiết Đan, tộc Bạch Sơn Mạt Hạt và tộc Hắc Sơn Mạt Hạt. Kế đó, Chấn vương Đại Tộ Vinh soạn ra bộ luật cho nước Đại Chấn, gọi là Thiên Thống Luật (Cheontong Lu). Thiên Thống Luật này có vai trò quan trọng trong việc cai trị đất nước, tương tự như Hiến Pháp của các quốc gia ngày nay. Thiên Thống Luật của Đại Tộ Vinh xác định rằng nước Đại Chấn này là hậu duệ của nước Cao Câu Ly (Goguryeo) cũ, coi vua Đông Minh Vương Cao Chu Mông là tổ tiên của nước Cao Câu Ly cũ và nước Đại Chấn. Nước Đại Chấn của Chấn vương Đại Tộ Vinh dùng ngôn ngữ là tiếng Cao Câu Ly, chữ viết là chữ Cao Câu Ly.
Vì nước Cổ Triều Tiên (2333 TCN - 108 TCN) được khai sinh trên núi Bạch Đầu (Baekdu, nay là núi Trường Bạch) nên Chấn vương Đại Tộ Vinh cử hành các nghi lễ tế tự thờ núi Bạch Đầu như các quốc gia Phù Dư (Buyeo), Cao Câu Ly (Goguryeo) từng thực hiện.
Cùng năm 699, Chấn vương Đại Tộ Vinh dẫn quân Đại Chấn đánh chiếm nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ là Tân Thành (này là Phú Thuận, Liêu Ninh, Trung Quốc). An Đông đô hộ Bùi Huyền Khê (裴玄珪) phải bỏ Tân Thành chạy trốn. Võ Tắc Thiên đổi nhiệm sở An Đông đô hộ phủ từ Tân Thành đã rơi vào tay Đại Tộ Vinh sang khu vực phía tây của Liêu Đông.
Quân đội nhà Chu 200.000 quân do Yên Quốc công Võ Giai Cố chỉ huy tấn công nước Đại Chấn năm 700. Chấn vương Đại Tộ Vinh dẫn quân đến hỗ trợ các thành trì chống quân Chu. Đến năm 701 Đại Tộ Vinh đánh bại quân Chu. Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết sai sứ sang nước Đại Chấn yêu cầu Chấn vương Đại Tộ Vinh hỗ trợ mình chống lại nhà Chu. Chấn vương Đại Tộ Vinh đồng ý và gửi 1 cánh quân Đại Chấn sang giúp A Sử Na Mặc Xuyết đánh các thành trì nhà Chu. Yên Quốc công Võ Giai Cố nghe tin thì kêu gọi Khả hãn Lý Thất Hoạt của tộc Khiết Đan phía bắc Doanh Châu và tộc Hắc Sơn Mạt Hạt đông bắc nước Đại Chấn cùng tấn công biên giới nước Đại Chấn. Chấn vương Đại Tộ Vinh chia quân làm ba cánh: cánh quân thứ nhất đi trấn áp tộc Hắc Sơn Mạt Hạt phía đông bắc, cánh quân thứ hai đánh đuổi tộc Khiết Đan phía tây bắc và cánh quân thứ ba tấn công các thành Baekam, Liêu Thành của nhà Chu phía tây nam. Cánh quân Đại Chấn thứ nhất đánh tan quân Hắc Sơn Mạt Hạt, chiếm lấy lãnh thổ của họ, chiếm lại ngọn núi đầy muối ven biển vốn thuộc Cao Câu Ly (Goguryeo) ngày xưa. Người Hắc Sơn Mạt Hạt phải chạy lên phía bắc. Cánh quân Đại Chấn thứ hai đánh tan quân Khiết Đan của Khả hãn Lý Thất Hoạt. Lý Thất Hoạt phải lui quân về Liêu Hà phía tây. Cánh quân Đại Chấn thứ ba thì bị Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh cầm chân ở phía bắc Liêu Đông. Trong khi đó Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết liên tục đánh chiếm các thành trì ở tây bắc nhà Chu, sắp tiến đến Trường An (nơi Võ Tắc Thiên đang ở). Thấy tình hình nguy cấp, Võ Đán phụng mệnh Võ Tắc Thiên đi đánh dẹp quân Đột Quyết của A Sử Na Mặc Xuyết đang tiến sâu vào lãnh thổ nhà Chu, nhưng sau đó quân Đột Quyết của A Sử Na Mặc Xuyết lui quân trước. Năm 702, Chấn vương Đại Tộ Vinh gọi cánh quân Đại Chấn đang đánh với quân Chu của Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh ở phía bắc Liêu Đông trở về. Năm 704 Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh lại dẫn quân Chu tiến đánh nước Đại Chấn của Chấn vương Đại Tộ Vinh.
Năm 705 Đường Trung Tông giành lại quyền lực từ Võ Tắc Thiên, lấy lại quốc hiệu Đại Đường khiến Võ Giai Cố đang đánh Chấn vương Đại Tộ Vinh phải đổi cờ xí Đại Chu sang Đại Đường và lấy lại họ Lý (gọi là Lý Giai Cố). Cuối cùng Lý Giai Cố cũng bị Chấn vương Đại Tộ Vinh đánh bại. Tướng Lạc Vũ Chỉnh của quân Đường tử trận. Yên Quốc công Lý Giai Cố cùng 1000 tàn quân Chu rút chạy về Liêu Hà phía tây Liêu Đông. Đại Tộ Vinh dẫn quân Đại Chấn bao vây Liêu Hà của nhà Chu. Lý Giai Cố dẫn quân Chu ra quyết chiến với quân Đại Chấn của Đại Tộ Vinh. Kết cục, Yên Quốc công Lý Giai Cố tử trận ở Liêu Hà, quân đội nhà Đường thua tan tác. Đại Tộ Vinh cho quân rút khỏi Liêu Hà, lui về phía đông để tránh quân đội Tiểu Cao Câu Ly của Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ (Go Deokmu) ở Liêu Đông. Sau cùng, Đại Tộ Vinh cũng đã có thể xây dựng một quốc gia độc lập tại vùng đất Ấp Lâu (挹婁) cũ. Khi biết Đường Trung Tông đã lật đổ Võ Tắc Thiên, trung hưng lại cơ nghiệp họ Lý Đường, cùng năm 705, Chấn vương Đại Tộ Vinh bèn thay đổi chính sách, hòa giải với nhà Đường. Cùng năm 705, vua Đường Trung Tông dời nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ từ phía tây Liêu Đông sang U Châu (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc), đồng thời gọi An Đông đô hộ Đường Hưu Cảnh (唐休璟) từ phía tây Liêu Đông về U Châu.
Đại Tộ Vinh sau đó còn thiết lập quan hệ hữu hảo với Tiểu Cao Câu Ly của Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ (Go Deokmu) ở Liêu Đông vào năm Thiên Thống thứ 10 (năm 707). Chấn vương Đại Tộ Vinh sau đó còn thiết lập quan hệ hòa bình với tộc Khiết Đan của Khả hãn Lý Thất Hoạt (李失活) phía bắc Doanh Châu nhà Đường vào năm Thiên Thống thứ 14 (711).
Trong giao tiếp ngoại giao giữa Tân La (đời vua Tân La Thánh Đức vương) và Đại Chấn, vua Tân La Thánh Đức vương đã cố gắng phong cho Chấn vương Đại Tộ Vinh với danh hiệu tương đương với quan chức hạng năm ở Tân La là "Đại A Chấn (Dae Achan)"[6] vào năm 710. Chấn vương Đại Tộ Vinh và người Đại Chấn không biết hệ thống cấp bậc được sử dụng ở Tân La nên họ đã chấp nhận danh hiệu này. Sau một thời gian, Chấn vương Đại Tộ Vinh nhận ra ý nghĩa của danh hiệu và tìm cách thay đổi địa vị quốc tế quốc gia mình. Năm 712, Chấn vương Đại Tộ Vinh đổi lại quốc hiệu từ Đại Chấn (Daejin) sang Bột Hải (Balhae)[7], xưng là Bột Hải vương, sử sách gọi là Cao Vương.
Năm 713, vua Đường Huyền Tông phong Bột Hải vương Đại Tộ Vinh làm Bột Hải quận vương (Bột Hải là tên của vùng biển bao quanh Liêu Đông và Sơn Đông nhà Đường[8]). Cả nhà Đường và Tân La đều không công nhận vương quốc Bột Hải là quốc gia kế vị Cao Câu Ly. Nhà Đường coi Bột Hải là một công quốc trong khi Tân La coi Bột Hải là chư hầu của họ. Bột Hải vương Đại Tộ Vinh đối với Tân La cũng giữ quan hệ hòa bình, nhưng thực chất bên trong cũng muốn đánh Tân La vì Tân La từng giúp quân Đường tiêu diệt Cao Câu Ly (quốc gia tiền thân của Bột Hải). Từ năm 713 đến năm 721, Tân La đã xây dựng bức tường phía bắc để duy trì hoạt động phòng thủ dọc biên giới, tránh bị Bột Hải tấn công[8]. Người kế nghiệp Bột Hải vương Đại Tộ Vinh là Bột Hải Vũ Vương sau này là người thay ông, đánh cho nước Tân La tan tác, cũng vì đất nước này trước đây đã hợp với quân Đường diệt Cao Cấu Ly năm 668 - nơi mà ông từng sống.
Năm 714, vua Đường Huyền Tông dời nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ từ U Châu (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc) sang Bình Châu (nay là Lư Long, Hà Bắc, Trung Quốc), đồng thời gọi An Đông đô hộ Đan Tư Kính (单思敬) về Trường An. Vua Đường Huyền Tông phong cho Hưa Khâm Thấu (许钦凑) làm An Đông đô hộ.
Năm 717 Khả hãn Lý Thất Hoạt của tộc Khiết Đan qua đời, Lý Sa Cố (李娑固) kế vị Khả hãn Khiết Đan và cũng duy trì hòa bình với Bột Hải vương Đại Tộ Vinh.
Tháng 6 năm Thiên Thống thứ 22 (719), Bột Hải Cao Vương Đại Tộ Vinh băng hà. Người con trai trưởng của ông là Đại Vũ Nghệ (Dae Muye) lên ngôi, tức là Vũ Vương nhà Bột Hải. Đại Tộ Vinh đã để lại di chúc rằng “Đừng quên tinh thần Cao Câu Ly, hãy kế thừa tinh thần của Cao Câu Ly”. Vũ Vương truy hiệu cho cha mình là Hiếu Cao đại vương là danh hiệu có tính tượng trưng cho “Vua của Cao Câu Ly”, truyền lại ý chí mạnh mẽ cho các đời vua Bột Hải sau này. Ý nghĩa ấy được thể hiện trong việc dựng nên đại đế chế rộng lớn từ phía Bắc bán đảo Triều Tiên cho tới tận vùng Siberia của Nga ngày nay, từ phía Đông Bắc Trung Quốc tới bờ biển Thái Bình Dương.
Năm 756 vì Loạn An Sử nổ ra, vua Đường Túc Tông bãi bỏ An Đông đô hộ phủ, Liêu Tây Cổ Thành không còn là trú địa của An Đông đô hộ phủ nữa. Năm 762 vua Đường Đại Tông công nhận Bột Hải là một vương quốc[8], đời vua Bột Hải Văn Vương Đại Khâm Mậu.
Bành trướng và quan hệ đối ngoạiSửa đổi
Với sự thành lập của Bột Hải ở Mãn Châu, khu vực Mãn Châu và bán đảo Triều Tiên đã trở thành cuộc đối đầu giữa Tân La ở phía Nam và Bột Hải ở phía Bắc.
Bột Hải đã bắt đầu mở rộng lãnh thổ và giành lại quyền kiểm soát hầu hết các lãnh thổ cũ của Cao Câu Ly. Vua thứ hai của Bột Hải, Vũ Vương (719-737), dù được vua Đường Huyền Tông sắc phong vương vị nhưng ông cảm thấy đất nước của mình bị bao vây bởi các thế lực của nhà Đường, Tân La và tộc người Hắc Thủy Mạt Hạt ở khu vực Hắc Long Giang; ông chủ trương tấn công các nước ấy trước. Nước Tân La cũng quan tâm đến sự nổi lên của vương quốc Bột Hải. Năm 721 vua Tân La Thánh Đức Vương đã cho xây một bức trường thành tại biên giới phía bắc của Tân La. Chứng tích của bức tường vẫn có thể tiếp cận tại tỉnh Hamgyong Nam ngày nay. Sự phát triển mạnh mẽ của Bột Hải đã gây ra va chạm với nhà Đường cũng như Tân La ở phía nam Triều Tiên, Khiết Đan, Đột Quyết, và một vài bộ lạc Mạt Hạt. Trong khi Hắc Thủy Mạt Hạt ở phía bắc Bột Hải nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp của nhà Đường từ năm 727, ông đã tấn công Hắc Thủy Mạt Hạt do lọ sợ một cuộc tấn công gọng kìm. Ông đã tấn công vào đông bắc nhà Đường bằng bộ binh năm 728. Khi quân Đường chuẩn bị phản công thì quân Bột Hải lui quân. Để tránh sự cô lập quốc tế, Bột Hải bắt đầu cử sứ thần sang Nhật Bản (đời Thiên hoàng Shōmu) từ năm 729. Nhật Bản, vốn đã có mối quan hệ căng thẳng với Tân La (đời vua Tân La Thánh Đức vương) đã hoan nghênh vương quốc với vị thế của một Cao Câu Ly (Goguryeo) hồi sinh. Sau đó ông lại tấn công bán đảo Sơn Đông nhà Đường bằng thủy quân năm 732 và đã giết chết một quan thái thú nhà Đường ở bán đảo Sơn Đông, chiếm đóng Sơn Đông.[9]. Cùng năm 732, tướng Đường là Cát Phúc Thuận đánh bại quân Bột Hải một trận lớn ở Sơn Đông khiến quân Bột Hải phải rút khỏi Sơn Đông theo đường biển về nước. Năm sau 733, vua Đường Huyền Tông phái quân Đường hợp sức với Tân La tiến đánh Bột Hải nhằm đưa em trai của Bột Hải Vũ Vương là Đại Môn Nghệ (Dae Munye) thế ngôi. Liên quân Đường-Tân La gặp tuyết lớn nên lui quân. Bột Hải Vũ Vương chớp thời cơ xua quân đánh tan liên quân Đường-Tân La. Tuy nhiên sau đó hai nước Bột Hải và nhà Đường đã ký hòa ước, với điều kiện Bột Hải phải cống nạp cho nhà Đường. Sau đó Bột Hải Vũ Vương liên tục tấn công Tân La của vua Thánh Đức vương.
Vua thứ ba của Bột Hải là Văn Vương (737-793) mở rộng lãnh thổ của Bột Hải đến lưu vực Hắc Long Giang ở phía Bắc và khu vực phía Bắc của bán đảo Liêu Đông ở phía Nam. Ông cũng củng cố quan hệ với Tân La (đời vua Tân La Hiếu Thành Vương, Tân La Cảnh Đức Vương, Tân La Huệ Cung Vương, Tân La Tuyên Đức Vương, Tân La Nguyên Thánh Vương), thế lực đã thống nhất bán đảo Triều Tiên phía nam Bột Hải. Trong thời kỳ trị vì của ông, Tân La đạo (Sillado), con đường giao thương buôn bán giữa Bột Hải với Tân La đã được thiết lập. Ông giám sát sự phát triển của tuyến thương mại được gọi là Tân La đạo (Hangul: 신라도, Hanja: 新羅道) này. Bột Hải cũng tăng cường ngoại giao và thương mại với Nhật Bản (đời Thiên hoàng Shōmu, Thiên hoàng Kōken, Thiên hoàng Junnin, Thiên hoàng Shōtoku, Thiên hoàng Kōnin, Thiên hoàng Kanmu) hòng gây sức ép với địch thủ Tân La ở mặt Nam. Bột Hải và Nhật Bản giữ vững quan hệ này trong suốt thời kỳ tồn tại của Bột Hải; và ta cũng thấy là trong cả giai đoạn này, Bột Hải sai sứ giả sang Nhật Bản cả thảy 34 lần, trong khi Nhật Bản chỉ sai sứ giả sang có 13 lần.[10] Và vì nằm liền kề nhiều thế lực hùng mạnh khác nhau, có thể xem Bột Hải như một cái đệm giữa các thế lực trong vùng. Người Bột Hải tự hào là người thừa kế của Cao Câu Ly. Các thư tín gửi cho Thiên hoàng Nhật Bản chỉ ra rằng các vị vua Bột Hải tự nhận mình là "vua Cao Câu Ly". Trong thời kỳ trị vì của mình, Văn Vương đã dời đô vài lần. Năm 742 Văn Vương dời đô từ Đông Mưu (Dongmo) sang Trung Kinh. Năm 743, vua Đường Huyền Tông dời nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ từ Bình Châu (nay là Lư Long, Hà Bắc, Trung Quốc) sang Liêu Tây Cổ Thành, đồng thời gọi An Đông phó Đại đô hộ Cổ Tuần (贾循) từ Bình Châu sang Liêu Tây Cổ Thành. Năm 755, ông lập ra thành phố Thượng Kinh, một trong những kinh đô của Bột Hải, tọa lạc tại khu vực gần hồ Kính Bạc ở Nam phần của tỉnh Hắc Long Giang ngày nay. Năm 756 ông đã cải cách chế độ thống trị và dời đô từ Trung Kinh sang Thượng Kinh. Ông cũng ổn định và tăng cường sức mạnh của triều đình Bột Hải, tăng cường sự khống chế của triều đình trên nhiều dân tộc cùng sống chung trong vương quốc - đang được tạm thời mở rộng. Ông cũng là người lập ra Trụ Tử Giám (胄子監, 주자감, chuchakam), học viện quốc gia của Bột Hải dựa trên Quốc tử giám của nhà Đường. Vì Loạn An Sử nổ ra năm 756, vua Đường Túc Tông bãi bỏ An Đông đô hộ phủ vào năm 761, Hầu Hi Dật (侯希逸) không còn làm An Đông đô hộ nữa, Liêu Tây Cổ Thành không còn là trú địa của An Đông đô hộ phủ nữa. Vua Bột Hải Văn Vương của vương quốc Bột Hải yên tâm về việc nhà Đường sẽ không thể tấn công quốc gia của mình vào thời điểm này. Năm 762 vua Đường Đại Tông công nhận Bột Hải là một vương quốc[8] nhằm khiến cho vua Bột Hải Văn Vương đừng thừa cơ nhà Đường còn loạn An Sử mà xâm phạm biên cương. Mặc dù nhà Đường chỉ công nhận ông là Vương, Văn Vương vẫn tự xưng mình là Hoàng đế, là Thiên tôn (天孫, 천손, Ch'ǒnson), con cháu của Trời.[11]Năm 785 Văn Vương dời đô từ Thượng Kinh sang Đông Kinh. Năm 793 Văn Vương dời đô từ Đông Kinh về lại Thượng Kinh.
Trong năm 793, Bột Hải Văn Vương qua đời, anh em trai là Đại Nguyên Nghĩa kế vị. Tuy nhiên, khi bước lên ngai vàng, nhà vua đã bộc lộ là một kẻ đố kị và tâm tính hung dữ, tàn bạo hiếu sát. Năm 794, Đại Nguyên Nghĩa bị đại thần giết chết. Đích tôn của Bột Hải Văn Vương là Đại Hoa Dư được chọn làm người kế vị, trở thành vua Bột Hải Thành Vương. Bột Hải Thành Vương là một người có thế chất yếu ớt, và đã chỉ sống được một vài tháng sau khi được kế vị ngai vàng. Sự kiện đáng chú ý nhất trong thời gian trị vì của ông là dời đô đến Thượng Kinh (Sanggyeong). Năm 795 Bột Hải Thành Vương băng hà, con của Bột Hải Văn Vương là Đại Tung Lân lên kế vị, tức là vua Bột Hải Khang Vương.
Trong giai đoạn trị vì của vua Bột Hải Khang Vương, Bột Hải đã kết thúc loạn sau cái chết của vua Bột Hải Văn Vương, vương quốc cũng có các hoạt động thương mại với Nhật Bản (đời Thiên hoàng Kanmu, Thiên hoàng Heizei, Thiên hoàng Saga), nhà Đường (đời vua Đường Đức Tông, Đường Thuận Tông), Tân La (đời vua Tân La Nguyên Thánh Vương, Tân La Chiêu Thánh Vương, Tân La Ai Trang Vương, Tân La Hiến Đức Vương) và cũng thường xuyên cử sứ thần sang ba nước. Năm 809, Bột Hải Khang Vương qua đời, con là Đại Nguyên Du lên kế vị, tức là vua Bột Hải Định Vương. Năm 812, vua Bột Hải Định Vương qua đời, em là Đại Ngôn Nghĩa lên kế vị, tức là vua Bột Hải Hi Vương. Vua Bột Hải Hi Vương buôn bán tích cực với nhà Đường (đời vua Đường Hiến Tông), và nhập về nhiều nét văn hóa và hệ thống tổ chức cai trị của nhà Đường vào vương quốc Bột Hải. Ông còn buôn bán với phản quân Lý Sư Đạo] của nhà Đường (đời vua Đường Hiến Tông). Sau đó, vào năm 815, Lý Sư Đạo giới thiệu thêm thương nhân người Tân La đang làm thương mại ở nhà Đường là Jami phu nhân cùng buôn bán với vương quốc Bột Hải của ông. Năm 817, vua Bột Hải Hi Vương qua đời, em là Đại Minh Trung lên kế vị, tức là vua Bột Hải Giản Vương. Năm 818, vua Bột Hải Giản Vương qua đời, hậu duệ đời thứ tư của Đại Dã Bột (em của Bột Hải Cao Vương) là Đại Nhân Tú lên kế vị, tức là vua Bột Hải Tuyên Vương.
Dưới triều vua thứ mười - Tuyên Vương (818-830), Bột Hải nắm quyền kiểm soát một lãnh thổ bao gồm phần phía Bắc bán đảo Triều Tiên, Đông Bắc Mãn Châu và khu vực Primorsky Krai của Nga ngày nay. Những chiến dịch của Tuyên Vương đã chinh phục được nhiều bộ tộc Mạt Hạt và cả vương quốc Tiểu Cao Câu Ly trong năm 820 - một quốc gia do những thành viên vương tộc Cao Câu Ly (con cháu của Cao Đức Vũ - Go Deokmu, con trai của Bảo Tạng Vương) lập nên tại bán đảo Liêu Đông vào năm 699 sau khi Cao Câu Ly sụp đổ. Sức ép từ thế lực Bột Hải đã khiến Tân La phải xây dựng tường thành ở biên giới phía Bắc giáp với Bột Hải vào năm 712, và quân đội Tân La ở đây cũng phải thường xuyên trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Năm 824 nước Tân La (đời vua Tân La Hiến Đức Vương) đứng trước họa xâm lăng từ vương quốc Bột Hải của vua Bột Hải Tuyên Vương phương Bắc. Hiến Đức Vương cho xây trường thành dài 300 lý gần sông Đại Đồng, sau này nó thành biên cương phía bắc đất nước Tân La. Bột Hải Tuyên Vương khi đó thường xuyên buôn bán với thương nhân Tân La là Jami phu nhân. Sau đó, vào năm 824, Jami phu nhân giới thiệu thêm thủ lĩnh hải tặc Lý Đạo Hình đang hoành hành ở bờ biển tây nam Tân La (đời vua Tân La Hiến Đức Vương) cùng buôn bán vũ khí, ngựa, lương thực với vương quốc Bột Hải của ông. Vùng lãnh thổ Bột Hải khi ấy rộng lớn gấp 2.2~2.8 lần tổng diện tích bán đảo Triểu Tiên ngày nay. Nhà Đường của vua Đường Văn Tông còn gửi sứ thần tới, thừa nhận sự tồn tại thực tế cũng như sức mạnh của Bột Hải. Ngoài ra nhà Đường còn gọi Bột Hải là "Hải đông thịnh quốc" (Haedong seongguk, nghĩa là “quốc gia thịnh vượng ở vùng biển phía Đông”). Ngay cả những quốc gia cách xa tới 1.300 km cũng muốn giao dịch với Bột Hải và nhờ cậy bảo hộ. Bột Hải đã phát triển là một đại cường quốc, đã tập trung sức mạnh vào cả việc phát triển kinh tế và văn hóa, giao dịch thực hiện cả với vùng Ba Tư (Persia) xa xôi, thủ phủ Dongkyeongseong của Bột Hải đã trở thành đô thị mang tầm thế giới ở thời điểm đó. Trong 12 năm trị vì, ông đã 5 lần cử sứ thần sang Nhật Bản (đời Thiên hoàng Saga, Thiên hoàng Junna), nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao cũng như các tuyến thương mại. Các sứ thần Bột Hải giành được sự công nhận thiện chí tại Nhật Bản mặc dù Nhật Bản có cảnh báo Bột Hải rằng cần hạn chế các phái đoàn vì chúng mang đến gánh nặng tiếp đón. Tuyến thương mại Bột Hải - Nhật Bản qua Biển Nhật Bản trở thành một trong những tuyến thương mại quan trọng nhất của Nhật Bản.
Năm 830, vua Bột Hải Tuyên Vương qua đời, đích tôn là Đại Di Chấn kế vị, tức là vua Bột Hải Trang Tông. Vua Đường Văn Tông cử sứ thần sang sách phong cho Bột Hải Trang Tông. Bột Hải Trang Tông mô phỏng nhà Đường, thi hành Mộ binh chế, thành lập thần sách quân tả hữu, tả hữu tam quân, 120 ti. Năm 836, Bột Hải Trang Tông gửi quân đội Bột Hải sang Tân La phía nam hợp quân với Kim Đễ Long và Jami phu nhân giết chết Kim Quân Trinh khi ông này đang trên đường làm lễ đăng cơ. Quân đội Bột Hải cùng Kim Đễ Long, Kim Rihong, Jami phu nhân đưa Kim Minh về kinh đô Kim Thành của Tân La. Con của Kim Quân Trinh là Kim Hựu Trưng và cháu nội của Kim Quân Trinh là Kim Khánh Ưng được Trương Bảo Cao hộ tống đào thoát đến Thanh Hải trấn (Cheonghaejin). Kim Minh đưa Kim Đễ Long lên ngôi vua Tân La, tức là vua Tân La Hi Khang vương. Quân đội Bột Hải sau đó mới rút về nước.
Năm 857, vua Bột Hải Trang Tông qua đời, kì đệ là Đại Kiền Hoảng lên kế vị. Ông từng cử một số đoàn sứ thần sang Nhật Bản và nhà Đường để thông báo việc mình kế vị và bang giao.
Sụp đổ và di sảnSửa đổi
Theo truyền thống, các sử gia tin rằng xung đột sắc tộc giữa những người Triều Tiên nắm quyền lực và người Mạt Hạt đã làm suy yếu vương quốc.[12] Các nghiên cứu gần đây khẳng định sự sụp đổ của Bột Hải chủ yếu là do núi Trường Bạch (Baekdu, Bạch Đầu trong tiếng Triều Tiên) đã phun trào núi lửa một cách khủng khiếp vào thế kỷ thứ X, ngọn núi khi đó nằm ở trung tâm của vương quốc. Núi Trường Bách hiện vẫn có một trong các hõm chảo núi lửa lớn nhất thế giới là Thiên Trì. Tro tàn của vụ phun trào này có thể tìm thấy trên một khu vực rộng lớn, thậm chí là trong lớp trầm tích tại miền bắc Nhật Bản. Vụ nổ đã tạo ra một số lượng rất lớn tro núi lửa, gây thiệt hại nông nghiệp và tính ổn định của xã hội.
Cuối cùng, Bột Hải đã không chống đỡ nổi người Khiết Đan, một thế lực nổi lên ở vùng Liêu Tây (phía đông Bắc Kinh hiện nay). Kinh đô Thượng Kinh của Bột Hải thất thủ trước người Khiết Đan. Bột Hải bị diệt vong sau 228 năm tồn tại. Sau khi diệt Bột Hải vào năm 926, Khiết Đan lập nên vương quốc bù nhìn Đông Đan (926 - 936), và không lâu sau dó bị sáp nhập vào Liêu năm 936. Một số quý tộc Bột Hải đã chuyển tới Liêu Dương song phần lãnh thổ phía đông của vương quốc vẫn có nền chính trị độc lập. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 927, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra. Những cuộc nổi dậy này cuối cùng đã biến thành các cuộc chiến nhằm phục quốc Bột Hải. Tuy nhiên chỉ có ba là thành công và lập nên các vương quốc: Hậu Bột Hải (927 - 935), Định An Quốc (925 - 985), Đại Hưng Liêu đế quốc (1029 - 1030). Tuy nhiên cả ba sau đó đều bị nhà Liêu tiêu diệt.
Năm 934, Đại Quang Hiển (Dae Gwang-hyeon), đã nổi dậy chống lại Khiết Đan. Sau khi thất bại, ông cùng nhiều người dân, gồm cả quý tộc đã chạy trốn tới Cao Ly ở phía nam, một thực thể mới cũng tự xưng là kế tục của Cao Câu Ly (934). Nhiều hậu duệ của hoàng tộc Bột Hải tại Cao Ly đã đổi họ thành Thái (Tae, 태, 太) trong khi Thái tử Đại Quang Hiển đổi sang họ Vương (Wang, 왕, 王), tên của hoàng tộc Cao Ly. Điều này đã dẫn đến việc nhà Liêu cắt quan hệ ngoại giao với Cao Ly song không đe dọa xâm lược.[13] Bột Hải là quốc gia cuối cùng trong lịch sử Triều Tiên nắm giữ bất kể một lãnh thổ đáng kể nào tại Mãn Châu, mặc dù các triều đại Triều Tiên tiếp theo tiếp tục coi mình là người thứa kế của Cao Câu Ly và Bột Hải. Hơn nữa, đó là sự bắt đầu của việc mở rộng lên phía bắc của các triều đại Triều Tiên sau này.
Người Khiết Đan cuối cùng cũng bị người Nữ Chân đánh bại, tức những người là hậu duệ của người Mạt Hạt từng nắm 1 phần quyền lực của Bột Hải (họ đồng thời là tiền thân của nhà Kim và nhà Thanh). Người Nữ Chân tuyên bố nguồn gốc chung của người Bột Hải và Nữ Chân là từ bảy bộ lạc vật cát (勿吉), và tuyên bố"Nữ Chân và Bột Hải là cùng một gia đình". Các hoàng đế thứ 4,5 và 7 của nhà Kim đều có phối ngẫu Bột Hải. Theo thống kê vào thế kỷ XIII của người Mông Cổ ở miền bắc Trung Quốc, người Bột Hải được phân biệt với các sắc dân khác như Cao Ly, Khiết Đan và Nữ Chân. Điều này cho thấy người Bột Hải vẫn còn lưu giữ bản sắc của mình ngay cả sau khi vương quốc bị chinh phục. Nhà Kim và Nhà Thanh đều coi Bột Hải là tổ tiên của mình, đưa lịch sử Bột Hải vào dòng lịch sử của người Nữ Chân.
Chính quyềnSửa đổi
Bột Hải được thành lập trên những phần lãnh thổ sót lại của Cao Câu Ly trước đây cùng một số bộ lạc Tungus ở Mãn Châu, trong đó có cả người Mạt Hạt. Người Mạt Hạt ở trong tình trạng nô lệ và phải phục vụ cho giới cầm quyền Cao Câu Ly.[12] Như vậy, họ tạo nên một tầng lớp lao động. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp người Mạt Hạt đã gia nhập vào tầng lớp thượng lưu Bột Hải song rất hiếm, ví dụ như Khất Tứ Bỉ Vũ (Gulsabiwu), người đã ủng hộ việc thành lập Bột Hải. Họ chỉ được phong các tước vị"suryong", hay"tù trưởng", và chỉ đóng một vai trò nhất định trong tầng lớp cầm quyền. Một số sứ thần Bột Hải cũng mang họ Mạt Hạt.
Bởi tất cả các tư liệu thành văn từ Bột Hải đã bị mất, tất cả thông tin liên quan đến vương quốc này phải thông qua khảo cổ hay sử sách Trung Hoa. Sau khi thành lập, Bột Hải đã tích cực tiếp nhận văn hóa và hệ thống chính trị của nhà Đường tại Trung Quốc. Các nghiên cứu khảo cổ về cách bố trí của các thành phố Bột Hải đã đưa ra kết luận rằng chúng có chức năng tương tự như các thành phố Cao Câu Ly, cho thấy Bột Hải duy trì sự tương dồng văn hóa với nhà Đường sau khi được thành lập.[14] Theo sử sách Trung Hoa, Bột Hải có 5 kinh đô, 15 phủ, và 63 huyện.[15]
Bột Hải là một xã hội văn hóa tiến bộ, một viên quan [[nhà Đường]đã mô tả nó là Hải đông thịnh quốc ("vùng đất hưng thịnh ở biển phía Đông"). Cáu trúc triều đình của Bột Hải tương tự như nhà Đường và hệ thống 5 kinh đô của nó bắt nguồn từ cấu trúc hành chính của Cao Câu Ly. Bột Hải, giống như Tân La đã cử nhiều du sinh sang nhà Đường để học tập và nhiều người thậm chí đã vượt qua kỳ thi khoa cử của Trung Quốc. Kết quả, kinh đô Thượng Kinh (Sanggyong) được tổ chức theo kiểu kinh đô Trường An của nhà Đường. Các khu dân cư dược bố trí hai bên của hoàng cung được bao quanh bởi một bức tường thành hình chữ nhật.
Nguồn gốc chủ yếu của văn hóa Bột Hải là Cao Câu Ly. Một Ô đột (Ondol) được cấu tạo để hở nằm bên trong thành nội của hoàng cung Bột Hải và nhiều nơi gần kế với nó. Hơn nữa, các tượng và họa tiết Phật giáo được tìm thấy trong các ngôi chùa Bột Hải phán ảnh rằng nét đặc biệt của nghệ thuật Cao Câu Ly. Một nguồn thông tin quan trọng về văn hóa Bột Hải đã được tìm ra vào cuối thế kỷ XX tại Quần thể lăng mộ cổ ở núi Long Đầu và đặc biệt là Mộ Công chúa Trinh Hiếu (Jeong-Hyo).
Vấn đề Bột Hải thuộc lịch sử của quốc gia nàoSửa đổi
Nói về nguồn gốc dân tộc của Bột Hải Cao Vương Đại Tộ Vinh đang là vấn đề mà các sử gia ngày nay bàn cãi, không đi theo một sự thống nhất. Một số nhà sử học Trung Quốc theo sách "Cựu Đường thư" đã cho rằng ông là người Cao Câu Ly. Nội dung rằng sau khi Cao Câu Ly sụp đổ được 30 năm thì ông ấy đánh bại quân Đường ở Thiên Môn Lĩnh, thành lập quốc gia Đại Chấn, nhờ tộc Khiết Đan che chắn biên giới với nhà Đường và kích động Đột Quyết giao tranh với nhà Đường để ông ấy tranh thủ xây dựng quốc gia, được 14 năm thì đổi tên Đại Chấn thành Bột Hải. Theo nội dung này thì Đại Tộ Vinh và vương quốc Bột Hải thuộc lịch sử Triều Tiên và Hàn Quốc.
Nhưng có nhiều người theo sách "Tân Đường thư", cho rằng Đại Tộ Vinh không phải là người Cao Câu Ly, mà là người Mạt Hạt sống tại miền Mãn Châu ngày nay, thời đó từng nội thuộc vào Cao Câu Ly, nhưng sau đó đã tách ra độc lập. Người Mạt Hạt là tổ tiên của người Nữ Chân sau này thành lập nhà Kim, nhà Thanh ở Trung Quốc nên các sử gia Trung Quốc cho rằng Đại Tộ Vinh và vương quốc Bột Hải thuộc lịch sử Trung Quốc.
Các sử gia Liên Xô ngày trước và Nga ngày nay cho rằng Đại Tộ Vinh là người Tungus ở Mãn Châu ngày xưa nên Đại Tộ Vinh và vương quốc Bột Hải thuộc lịch sử Nga. Các sử gia Nhật Bản cho rằng Đại Tộ Vinh là người Sumo ở Mãn Châu ngày xưa, vương quốc Bột Hải là tiền thân của Mãn Châu Quốc (1932 - 1945) do người Nhật Bản thành lập nên Đại Tộ Vinh và vương quốc Bột Hải thuộc lịch sử Nhật Bản.
Nhưng nói cho cùng, khả năng Đại Tộ Vinh là người Cao Câu Ly vẫn là cao nhất. Cha của ông - Đại Trọng Tượng - đã từng lãnh đạo quân người Cao Câu Ly chống lại nhà Đường, nhà Chu, bản thân Đại Tộ Vinh lập ra vương quốc Bột Hải với khẩu hiệu muốn khôi phục lại Cao Câu Ly, luôn chiến đấu chống lại sự xâm lược của các triều đại Trung Quốc. Dưới sự điều khiển của nhà Đường và nhà Chu, người Cao Câu Ly tạm thời ẩn nấu tại Doanh Châu (nay thuộc Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc), sau đó theo Đại Tộ Vinh sáng lập ra Bột Hải. Bột Hải chiếm lấy hầu hết đất đai của cựu vương quốc Cao Câu Ly, cai trị trong 228 năm, dùng ngôn ngữ Cao Câu Ly, chữ viết Cao Câu Ly. Các vua Bột Hải đều tự coi mình như là vị vua kế tục dân tộc Cao Câu Ly vậy. Theo sách "Loại Tụ quốc sử" (類聚國史) được viết tại Nhật Bản vào thế kỷ thứ IX, cho rằng vương quốc Bột Hải vốn là dân của Cao Câu Ly, nên các vua Bột Hải tất cũng là công dân của Cao Câu Ly. Phần lớn những người dân nước Bột Hải là người Cao Câu Ly, người Mạt Hạt chiếm số ít hơn. Khi Bột Hải có quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, vua Bột Hải cũng nói rằng mình là người kế nghiệp Cao Câu Ly.
Bột Hải trong các tác phẩm nghệ thuậtSửa đổi
Bộ phim Emperor of the Sea của Hàn Quốc có đề cập đến việc phản quân Lý Sư Đạo của nhà Đường, thương nhân Jami phu nhân của Tân La và hải tặc Lý Đạo Hình ở biển tây nam Tân La có mua bán với Bột Hải. Đặc biệt Jami phu nhân mượn quân đội Bột Hải can thiệp vào việc giành ngôi vua ở Tân La năm 836: giết Kim Quân Trinh khi ông này đang trên đường làm lễ đăng cơ sau khi vua Tân La Hưng Đức Vương băng hà, đánh đuổi Kim Hựu Trưng chạy ra Thanh Hải (Cheonghae), chiếm kinh đô Kim Thành ở Tân La đưa Kim Minh trở về, lập Kim Đễ Long lên ngôi vua Tân La rồi rút quân về nước. Bộ phim được phát sóng vào các ngày Thứ tư và Thứ năm hàng tuần trên kênh KBS2 từ ngày 24 tháng 11 năm 2004 đến ngày 25 tháng 5 năm 2005.
Bối cảnh của phim kiếm hiệp Muyeonggeom (무영검, 無影劍, Vô Ảnh Kiếm) của Hàn Quốc nói về vị vương tử cuối cùng của Bột Hải là Dae Jeong-hyun cố gắng chiến đấu với người Khiết Đan nhằm khôi phục Bột Hải. Phim công chiếu ngày 18 tháng 11 năm 2005.
Đồng thời, Dae Jo Yeong - một bộ phim 134 tập của Hàn Quốc nói về cuộc đời của Cao Vương - cũng đã được phát sóng vào các ngày Thứ bảy và Chủ nhật hàng tuần trên kênh KBS Drama từ ngày 16 tháng 9 năm 2006 đến ngày 23 tháng 12 năm 2007. Bộ phim này được nhiều đề cử và đã đạt rất nhiều giải thưởng ở các buổi lễ trao giải KBS Drama Awards 2006, KBS Drama Awards 2007, Korean Broadcasting Awards 2008 và Korea Drama Awards 2008. Bộ phim cổ vũ tinh thần yêu nước chống Trung Quốc xâm lược của dân Hàn Quốc, nhắc dân Hàn Quốc không được quên vùng đất của mẹ (ý nói vương quốc Bột Hải) đã mất hoàn toàn vào tay Trung Quốc ngày nay. Bộ phim được dân Hàn Quốc đánh giá là một trong những bộ phim truyền hình hay nhất mọi thời đại của lịch sử phim truyền hình Hàn Quốc.
Tham khảoSửa đổi
- ^ Liêu sử quyển 2:"辛未,諲譔素服,稿索牽羊,率僚屬三百餘人出降。"
- ^ Compendium of the Five Dynasties 五代會要(Wudai Huiyao):... 大姓舍利官乞乞仲象名也
- ^ Compendium of the Five Dynasties 五代會要(Wudai Huiyao):... 高麗別種大舍利乞乞仲象
- ^ Old records of Silla 新羅古記(Silla gogi):... 高麗舊將祚榮
- ^ Rhymed Chronicles of Sovereigns 帝王韻紀(Jewang ungi):... 前麗舊將大祚榮
- ^ Kim 2011a, tr. 348.
- ^ Compendium of the Five Dynasties 五代會要(Wudai Huiyao):... 保據挹婁故地
- ^ a b c d Kim 2011a, tr. 349.
- ^ Zizhi Tongjian, vol. 213.
- ^ 9 Balhae and Japan Lưu trữ 2015-06-26 tại Wayback Machine Northeast Asian History Foundation
- ^ 야청도의성(夜聽도衣聲)
- ^ a b Lee Ki-baik."The Society and Culture of Parhae."The New History of Korea, page 88-89. Harvard University Press, 1984.
- ^ [Mote p. 62]
- ^ Ogata, Noboru. "A Study of the City Planning System of the Ancient Bohai State Using Satellite Photos (Summary)". Jinbun Chiri. Vol.52, No.2. 2000. pp.129 - 148. Truy cập 10 tháng 11 năm 2011.
- ^ Ogata, Noboru. "Shangjing Longquanfu, the Capital of the Bohai (Parhae) State". Kyoto University. 12 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2011.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Vương quốc Bột Hải. |