Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lực lượng đặc biệt Khmer”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: → (13), → (10) using AWB
n →‎Lịch sử hình thành: clean up, General fixes using AWB
Dòng 30:
Lực lượng đặc biệt Khmer chính thức thành lập vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1971]], khi Liên đoàn biệt kích số 1 (nhảy dù) được tổ chức tại [[Phnôm Pênh]] dưới sự chỉ huy của [[Trung tá]] [[Thach Reng]]. Hai nhóm biệt kích khác là Liên đoàn biệt kích số 2 (nhảy dù) và Liên đoàn biệt kích số 3 (nhảy dù) được xây dựng và trang bị vào năm sau.
 
Dưới sự bảo trợ của chiến dịch “Freedom"Freedom Runner”Runner" một chương trình huấn luyện cho FANK do [[Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ|lực lượng đặc biệt Mỹ]] (USSF) thiết lập vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[1971]], các nhóm biệt kích Khmer bắt đầu được gửi đến [[Nam Việt Nam]] để tham dự các khóa học nhảy dù tại Trung tâm huấn luyện nhảy dù [[Long Thành]] và khóa học về biệt kích tại Trung tâm huấn luyện [[Động Ba Thìn]] của [[Lực lượng đặc biệt (Việt Nam Cộng hòa)|lực lượng đặc biệt quân lực Việt Nam Cộng hòa]] gần [[vịnh Cam Ranh]]. Nhân lực do biệt đội USSF B-51 cung cấp, được sự hỗ trợ của các huấn luyện viên [[quân đội New Zealand]] từ Nhóm huấn luyện quân đội New Zealand số 2 ở Việt Nam (2 NZATTV)<ref>Lyles, ''Vietnam ANZACs - Australian & New Zealand Troops in Vietnam 1962-72'' (2004), p. 55, Plate C1.</ref> và phỏng theo chương trình huấn luyện của biệt kích Mỹ-Việt Nam Cộng hòa, các khóa học bắt đầu với bốn tuần lễ học về những kỹ năng biệt kích cơ bản tiếp theo là huấn luyện một trong sáu kỹ năng của nghề biệt kích: hành quân và hoạt động [[tình báo]], [[phá hủy]] vũ khí hạng nhẹ, hạng nặng, truyền tin và cứu thương. Các khóa học nâng cao bổ sung khác bao gồm [[chiến tranh tâm lý]], [[chiến tranh chính trị]], [[Chiến tranh chống tăng|kỹ thuật chống tăng]] và [[võ thuật]]. Hai tuần lễ thực hành trận địa bắn đạn thật (đôi khi bổ sung thêm cuộc hành quân dã chiến chống lại lực lượng quân đội [[Bắc Việt Nam|Bắc Việt]]/[[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Việt Cộng]] tại các khu vực xung quanh trung tâm huấn luyện<ref>Conboy and Bowra, ''The War in Cambodia 1970-75'' (1989), p. 11.</ref>) thì coi như đã hoàn thành khóa học biệt kích.
 
Nhiều khóa huấn luyện biệt kích chuyên ngành được thực hiện tại Mỹ và [[Thái Lan]] kể từ [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1972]]. Những học viên biệt kích quân Khmer được tham dự các khóa học kỹ thuật tại [[Fort Bragg]], [[Bắc Carolina]] bởi [[Liên đoàn biệt kích số 5]] USSF và tại Trung tâm chiến tranh đặc biệt của [[quân đội Hoàng gia Thái Lan]] (RTA) ở [[Ft. Narai]], tỉnh [[Lopburi (tỉnh)|Lopburi]] bởi [[Đại đội biệt kích số 46]] Mỹ; có bổ sung thêm những kỹ năng du kích và biệt kích do những huấn luyện viên đến từ [[Lực lượng đặc biệt Hoàng gia Thái Lan|lực lượng đặc biệt quân đội Hoàng gia Thái Lan]] (RTSF) và [[Đơn vị chống khủng bố Naresuan 261|đơn vị không yểm]] [[cảnh sát Hoàng gia Thái Lan]] (PARU) tại các trại huấn luyện [[Phitsanulok (tỉnh)|Phitsanulok]] và [[Hua Hin (huyện)|Hua Hin]] về sau.<ref>Conboy and McCouaig, ''South-East Asian Special Forces'' (1991), pp. 48-50.</ref> Các khóa học về [[Biệt động quân Hoa Kỳ|biệt động]], [[Lực lượng viễn thám Hoa Kỳ|viễn thám]] và truyền tin nâng cao được đưa vào đầu năm [[1973]] tại Trường huấn luyện do thám ([[tiếng Anh]]: ''Recondo School'') thuộc [[Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam]] (MACV) ở [[Nha Trang]], Nam Việt Nam, nhân lực do biệt đội USSF B-36 cung cấp và tại Trường huấn luyện do thám của [[Quân đội Hoàng gia Thái Lan|RTA]] cũng đặt tại Ft. Narai, Thái Lan, trước khi chiến dịch “Freedom"Freedom Runner”Runner" chính thức kết thúc vào tháng 7 năm đó.
 
==Cơ cấu và tổ chức==