Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiền uyển tập anh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: clean up using AWB
n clean up, General fixes using AWB
Dòng 24:
Tương tự, trong ''Lời Tựa'' cho lần in năm [[1990]], Thượng tọa [[Thích Thanh Tứ]] cũng đã viết rằng: ''Tuy cuốn Thiền uyển tập anh không ghi rõ tên soạn giả, nhưng qua các tài liệu tham khảo chúng ta có thể xác định tác phẩm này đã được ngài [[Thông Biện]] thiền sư khởi thảo từ thời [[Nhà Lý|Lý]] đến ngài [[Biện Tài]], [[Thường Chiếu (thiền sư)|Thường Chiếu]], [[Thần Nghi]]... Trải qua một quá trình biên soạn rồi đến thiền sư Ẩn Không là người hoàn tất việc biên soạn cuối cùng <ref>Trích ''Lời Tựa'' của HT. [[Thích Thanh Tứ]] in ở đầu sách ''Thiền uyển tập anh'' (bản dịch của Nguyễn Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga).</ref>.
 
Thiền sư Ẩn Không, trong ''Thiền uyển tập anh'' không có truyện, nên không biết gì về ông. Tuy nhiên, nhờ một câu chú thích do người sau thêm vào sau truyện ''Thiền sư Thần Nghi'', mà biết được ông là người ở tại Lượng Châu, huyện Na Ngạn (khi ấy bao gồm miền đất thuộc Lục Nam, Lục Ngạn và một phần huyện [[Yên Dũng]] của tỉnh [[Bắc Giang]] ngày nay), nên còn được đời gọi là Na Ngạn đại sư, thuộc thế hệ thứ 14 của phái thiền [[Vô Ngôn Thông]]. Ông được thầy trao truyền tập sử liệu vào năm [[1216]]. Đến năm [[1225]], [[nhà Trần]] thành lập. Rất có thể sau năm này ông hoặc đệ tử của ông cho khắc in ''Thiền uyển tập anh'' (hoàn thành từ tập sử liệu vừa kể), cho nên [[Lê Quý Đôn]] và [[Phan Huy Chú]] đều chép là “do"do người đời Trần soạn”soạn"<ref>Căn cứ theo thông tin trong ''Việt Nam Phật giáo sử luận'' (Tập 1, tr. 106) và ''Từ điển văn học'' (bộ mới, tr. 1674).</ref>.
 
===Về văn bản===
Không rõ ''Thiền uyển tập anh'' được khắc in lần vào năm nào, chỉ biết rằng đến đời vua [[Tự Đức]] chỉ còn bản trùng san (khắc in lại) do hòa thượng Thích Như Trí và các môn đồ khắc in ở chùa Tiên Sơn ([[Từ Sơn]], [[Hà Bắc]]; nay thuộc [[Bắc Ninh]]) vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 ([[1715]]) đời vua [[Lê Dụ Tông]].
 
Và cũng vì bản in này "trong đó có nhiều chỗ lầm từ chữ này sang chữ nọ, sai lầm khó đọc ra chữ gì" (Tựu trung lỗ ngư bất nhất, vận suyển san danh”danh"), nên lúc bấy giờ có hòa thượng Thích Phúc Điền ở Bồ Sơn ([[Bắc Ninh]]) đã ra công hiệu chỉnh, làm thành quyển Thượng trong bộ sách gồm 2 quyển có tên là ''Trùng khắc Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục'', và cho khắc in vào đầu năm [[Kỷ Mùi]] ([[1859]])<ref>Căn cứ vào câu cuối trong bài ''Tựa'' của hòa thượng Thích Phúc Điền đề ở đầu quyển Hạ. Câu ấy như sau: "Năm [[Tự Đức]] thứ 12, ngày rằm [[tháng giêng|tháng Giêng]] năm [[Kỷ Mùi]], Hòa thượng Phúc Điền ở Bồ Sơn với giới đao và độ điệp soạn”soạn" (Giới đao và độ điệp là giấy chứng thư và thông hành của tăng sĩ do nhà vua cấp).</ref>.
 
Trong quyển Thượng, có dòng phụ chú: "Thất tập nhân danh, cựu bản Tiên Sơn tự" (tên người biên tập đã thất truyền, căn cứ theo bản cũ ở chùa Tiêu Sơn). Riêng quyển Hạ không phải là quyển tiếp nối ''Thiền uyển tập anh'', mà là hai cuốn khác cũng nói về Thiền học [[Việt Nam]], đó là cuốn ''Tam tổ thực lục'' (nói về ba vị tổ Trúc Lâm đời Trần) và cuốn ''Ngự chế Thiền điển thống yếu kế đăng lục'' (do thiền sư Như Sơn ở chùa Hồng Phúc, ấn hành năm [[1734]]).
Dòng 137:
==Sách tham khảo chính==
* Nguyễn Lang (tức Thiền sư [[Thích Nhất Hạnh]]), ''Việt Nam Phật giáo sử luận'' (Tập 1). Nhà xuất bản Văn học, [[Hà Nội]], 1992. Bản điện tử ở đây: [http://thuvien-thichnhathanh.org/index.php/tac-phm/84-vn-pht-giao-s-lun-i/451-vnpgsl-i-chng-04-sach-thin-uyn-tp-anh-va-cac-tai-liu-v-o-pht-vit-nam-i-ng?start=1].
*Phạm Ngọc Lan, mục từ “Thiền"Thiền uyển tập anh”anh" trong ''Từ điển văn học'' (bô mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
*Nguyễn Đăng Na, ''Văn học thế kỷ X-XIV''. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, [[Hà Nội]], 2004.
*Nhiều người soạn, ''Thiền uyển tập anh'' (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch từ bản [[chữ Hán]] được khắc in năm [[1715]]). Nhà xuất bản Văn học, [[Hà Nội]], 1990.