Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cải cách thời Vương Mãng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n using AWB |
n Alphama Tool, General fixes |
||
Dòng 25:
Năm 9, Vương Mãng ban hành cải cách. Các chính sách chủ đạo của Vương Mãng là<ref>Trương Chí Quân, sách đã dẫn, tr 38-39</ref><ref>Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 548-550</ref>.
# Chế độ
# Chấm dứt chế độ nô lệ, chấm dứt mua bán nô tỳ, đổi gọi nô tỳ là tư thuộc. Lao động bắt buộc: người vô công rỗi nghề mỗi năm phải nộp 1 tấm vải, nếu không đóng được thì bị phạt phải đi lao động khổ sai
# Cải cách tiền tệ; thiết lập chế độ vay lãi: những khoản vay dùng vào việc tang lễ, cúng bái thì không phải trả lãi. Thực thi chế độ chuyên doanh: chính quyền trung ương chuyên doanh rượu, muối và đồ sắt;
# Thực hiện chính sách kinh tế có kế hoạch, giá cả do triều đình khống chế nhằm ngăn chặn con buôn thao túng thị trường, loại trừ hiện tượng có người giàu người nghèo.
# Thuế thu nhập thu theo công thức
Chủ trương tổng quát của Vương Mãng là muốn hướng tới một xã hội thái bình, ''
== Kết quả thực thi cải cách kinh tế ==
Dòng 37:
Tuy có ý tưởng tốt về việc hạn chế người sở hữu quá nhiều ruộng đất nhưng về cơ bản chính sách của Vương Mãng lại trái với quy luật của thực tế khách quan của sự phát triển xã hội nên rất khó thực hiện.
Điều cốt lõi của chế độ
# Đối với các địa chủ lớn nhỏ: nó đụng chạm rất nhiều đến lợi ích của người có nhiều ruộng đất trong xã hội phong kiến khiến họ tìm cách che giấu, phân tán và chống đối; tính tư hữu đã ăn sâu trong tư tưởng họ qua nhiều thế hệ.
# Với người nông dân: những hứa hẹn ban đầu về ruộng đất có thể khiến họ phấn chấn nhưng sau đó hiệu quả thực thi không có khiến họ trở nên phẫn nộ.
Dòng 57:
Sang năm 9, ông lại thay đổi: nhất loạt bỏ hết tiền ''Ngũ thù, khế đao, thác đao'' mà đúc tiểu tiền nặng 1 thù để thay thế. Để ngăn nạn đúc tiền lậu, ông ra lệnh cấm nhân dân đốt lò nấu đồng. Vì vậy, kim loại phải nộp cho triều đình mà triều đình lại chỉ ban ra những đồng tiền kém giá trị so với trước, tài sản xã hội bị cướp về tay triều đình. Nhân dân đã quen dùng tiền ngũ thù, không quen tiền nhất thù nên càng bất mãn hơn.
Vương Mãng tiếp tục cải cách tiền tệ và lần thứ 3 càng gây hỗn loạn hơn. Năm 10, ông hạ lệnh gọi hoá tệ là
{{cquote|
''Ai cố dùng tiền Ngũ thù sẽ bị đày ra biên cương; một nhà đúc tiền lậu thì 5 nhà xung quanh chịu liên đới và bị sung làm nô tỳ.''
}}
Cực đoan hơn, Vương Mãng còn ra quy định bất kỳ ai ra đường cũng phải mang theo
Do những trở ngại từ phản ứng trong xã hội, sau cùng Vương Mãng buộc phải hạ lệnh chỉ giữ lại 2 loại tiền: loại nhỏ trị giá 1 và loại lớn trị giá 50, còn lại bỏ hết các loại tiền khác.
Dòng 70:
Vương Mãng thực hiện chính sách kinh tế có kế hoạch, giá cả do triều đình khống chế nhằm ngăn chặn con buôn thao túng [[thị trường]] và loại trừ hiện tượng có người giàu người nghèo.
Vương Mãng xuống chiếu thi hành
Vương Mãng muốn triều đình khống chế giá cả để làm lợi cho dân, về xuất phát điểm là tích cực. Nếu thực thi tốt sẽ làm lợi cho cả nhân dân và triều đình. Tuy nhiên, điều kiện lúc đó không cho phép áp dụng chính sách này một cách đúng nghĩa của nó.
Tiền đề để áp dụng
=== Việc thu thuế và vay vốn ===
Dòng 95:
''Chiếu thư này ra lệnh cho Đại doãn Thái uý Trần Lưu: cắt phần đất phía nam của Ích Tuế giao cho Tân Bình, mà Tân Bình nguyên là Hoài Dương. Cắt phần đất ở phía đông Ung Bình giao cho Trần Định, mà Trần Định nguyên là quận Lương. Cắt phần đất phía đông Phong Khâu giao cho Trị Đình, mà Trị Đình nguyên là Đông quận. Cắt phần đất phía tây của Trần Lưu giao cho Kỳ Tuỵ, mà Kỳ Tuỵ nguyên là Vinh Dương…<ref name="Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 552"/>''
}}
Đối với các chức danh, tên gọi, Vương Mãng cũng muốn thay đổi theo cách gọi của thời cổ đại:
== Bãi bỏ muộn màng ==
Dòng 113:
Theo ý kiến của Tiêu Lê, các cải cách kinh tế - xã hội của Vương Mãng không những không mang lại hiệu quả làm đất nước giàu mạnh, ổn định trật tự xã hội mà ngược lại đã phản tác dụng. Những chủ trương đó phần thì không thực tế, phần thì đụng chạm lớn đến quyền lợi của giai cấp địa chủ, phần thì gây nhiều xáo trộn trong xã hội, nên không thi hành được. Những mâu thuẫn trong xã hội chẳng những không giải quyết được mà càng gay gắt thêm. Vương Mãng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư duy Nho giáo khuôn sáo cổ hủ, mang tư tưởng chỉ đạo đó vào thực tế một cách rất chủ quan và mù quáng. Cải cách chế độ là thực tế khách quan, đòi hỏi người lãnh đạo phải suy tính thấu đáo nhưng Vương Mãng đã áp dụng vào thực tế bằng những tư duy rất chủ quan của mình. Điều đó khiến cải cách của ông bị thất bại hoàn toàn<ref>Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 396</ref>. Tiêu Lê kết luận: Vương Mãng cải cách toàn bộ, bằng những lời lẽ phỉnh phờ lừa dối nhân dân, lừa dối lịch sử và cuối cùng bị lịch sử trừng phạt<ref>Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 423</ref>.
Theo ý kiến của Cát Kiếm Hùng, Vương Mãng thành tâm muốn cải tổ. Một mặt, ông đề ra những yêu cầu không phù hợp với thực tế và cao hơn cả quy định của pháp luật (
Lệnh bãi bỏ cải cách mà ông ban ra (năm 22) mong cứu vãn tình thế nhưng đã quá muộn và không giúp gì được. Phong trào khởi nghĩa nổ ra khiến nhà Tân sụp đổ cùng thất bại hoàn toàn của cuộc cải cách do ông đề xướng thực hiện.
|