Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lưu Nhân Chú”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Lumerita (thảo luận | đóng góp)
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:03.4541100
Dòng 21:
}}
 
'''Lưu Nhân Chú''' ([[chữ Hán]]: 劉仁澍, ?-[[1433]]), hay '''Lê Nhân Chú''', là công thần khai quốc nhà [[Nhà Lê sơ|Lê sơ]] trong [[lịch sử Việt Nam]], người xã An Thuận thượng, huyện [[Đại Từ]], tỉnh [[Thái Nguyên]], [[Việt Nam]]<ref name="DVTS251">Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007, trang 251 </ref>
 
Lưu Nhân Chú tham gia hội thề Lũng Nhai (1416), tham dự khởi nghĩa Lam Sơn từ buổi ban đầu. Ông tham gia các trận đánh ở ải Khả Lưu, trận thành Tây Đô, chiến dịch Chi Lăng Xương Giang, lập nhiều công lao. Sau khi chiến thắng quân Minh, ông được vua Lê Thái Tổ phong chức Tể tướng, đứng đầu hàng võ, kiêm coi chính sự nhà nước. Năm 1433, ông bị Đại tư đồ Lê Sát đầu độc chết.<ref>Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007, trang 251, 252, 253, 254</ref>
Dòng 36:
Năm [[1425]], ông cùng các tướng [[Đinh Lễ]], [[Lê Sát]], [[Lý Triện|Lê Triện]] đánh úp phá quân Minh ở thành Tây Đô, được phong chức Thông hầu<ref name="DVTS251"/>.
 
Mùa thu năm [[1426]], Lê Lợi đang vây thành [[Nghệ An]], sai Lưu Nhân Chú cùng các tướng [[Bùi Bị]], Lê Sát, [[Lê Khuyển]], [[Lê Nanh]] mang 2000 quân ra lộ [[Trường Yên]], [[Thiên Trường]], [[Tân Hưng]], [[Kiến Xương]] để chặn đường về của Phương Chính, Lý An, khi họ định bỏ Nghệ An đưa quân về cứu Đông Đô<ref name="DVTS252">Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007, trang 252 </ref>.
 
Khi chiếm được các đất [[Trường Yên]], [[Thiên Trường]], [[Tân Hưng]], [[Kiến Xương]] ông cùng hội quân với [[Bùi Bị]], [[Lê Bồi]], [[Lê Vị Tẩu]] tiến sang địa giới các lộ [[Khoái Châu]], [[Lạng Giang]], [[Bắc Giang]] lược định các châu huyện để chặn viện binh của quân Minh từ [[Khâu Ôn]] tiến sang<ref name="DVTS252"/>.
Dòng 48:
[[Mộc Thạnh]] cầm một cánh quân viện binh khác, nghe tin Liễu Thăng bại trận nên bỏ chạy về. Vương Thông bị vây ngặt ở [[Hà Nội#Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh|Đông Quan]] không còn quân cứu ứng phải xin giảng hoà để rút về nước.
 
Để giữ đúng lời ước, Lê Lợi và Vương Thông bằng lòng đổi con tin. Thông cử hai tướng [[Sơn Thọ]], [[Mã Kỳ]] sang bên quân Lam Sơn còn Lê Lợi sai con cả là [[Lê Tư Tề]] cùng Lưu Nhân Chú vào thành [[Hà Nội#Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh|Đông Quan]]<ref>Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007, trang 252, 253 </ref>
 
Ngày 22 tháng 11 năm [[Đinh Mùi]], tức [[10 tháng 12]] năm [[1427]], Lưu Nhân Chú theo Lê Lợi và 13 tướng lĩnh tham gia Hội thề Đông Quan với tướng Vương Thông nhà Minh. Quân Minh cam kết rút về nước<ref>Đại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 83</ref><ref>Nguyễn Trãi toàn tập, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài văn hội thề</ref>
Dòng 57:
 
Vua Lê Thái Tổ ban bài chế cho ông:
{{cquote|''Trẫm nghĩ:vua tôi một thể, chân tay giỏi thì đầu được tôn. Giúp đỡ có người, rường cột chắc thì nhà mới vững. Người là người phò tá có tài, là bề tôi tận trung của nước. Nên trẫm cho vinh hạnh ở ngôi Tể tướng, và vẫn giữ trách nhiệm coi nắm binh quyền. Nay ban cho tờ chiếu chỉ ; để nêu rõ bậc quan sang.<ref name="DVTS251"/>''|||Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lưu Nhân Chú}}
 
Tháng 5 năm [[1429]], Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, Lưu Nhân Chú được phong làm Á thượng hầu, tên đứng hàng thứ 5.<ref name="ReferenceA">Đại việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 254</ref>
 
==Tham dự triều chính==
Dòng 70:
Năm [[1437]], Lê Thái Tông khôn lớn, tự mình cầm quyền, biết được nỗi oan của ông, đã trị tội giết chết Lê Sát.
 
Năm [[1484]], [[Lê Thánh Tông]] truy tặng ông làm Thái phó Vinh quốc công.<ref>Đại việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 254<name="ReferenceA"/ref>
 
Em cùng mẹ với ông là Trịnh Khắc Phục cũng là đại thần [[nhà Hậu Lê]], được ban họ vua nên thường được biết tới với tên là Lê Khắc Phục. Trịnh Khắc Phục là Tư khấu vào cuối những năm 1440 và bị Thái hậu [[Nguyễn Thị Anh]] giết oan cùng con trai ông và bố con Thái úy [[Trịnh Khả]].
Dòng 81:
 
==Ghi nhớ công ơn==
[[FileTập tin:Toan+canh+le+hoi.jpg|thumb|350px|Lễ hội Núi Văn-Núi Võ]]
* Lưu Nhân Chú được lập đền thờ tại Núi Văn nằm trên địa phận xã Văn Yên huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Lễ hội đền được tổ chức vào ngày 04/01 âm lịch hàng năm. Hiện quần thể di tích Núi Văn-Núi Võ đã được xếp hạng Di tích Quốc gia và được đầu tư để xây dựng các công trình như Đền thờ Tướng quân Lưu Nhân Chú, nhà tưởng niệm, khuôn viên cây xanh, trạm nghỉ cho khách thập phương... <ref>Lễ hội đền Lê Nhân Chú, Núi Văn, xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên [http://daitutintuc.violet.vn/entry/show/entry_id/4971363]</ref>
* Tên của ông được đặt tên cho một ngôi trường cấp 3 ở Xóm Duyên, xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, trường THPT Lưu Nhân Chú.<ref>Trường THPT Lưu Nhân Chú[http://luunhanchu.net/ Trường THPT Lưu Nhân Chú]</ref>
*Để ghi nhớ công ơn của Lưu Nhân Chú, tên ông đã được đặt tên cho các đường phố ở [[Thái Nguyên (thành phố)|Thành phố Thái Nguyên]] và [[Sóc Sơn]], [[Hà Nội]]
 
Dòng 95:
* [[Lê Quý Đôn]] (1978), ''Đại Việt thông sử'', NXB Khoa học xã hội
==Liên kết ngoài==
*Lễ hội Núi Văn, Núi Võ, xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên [http://www.thainguyen.gov.vn/wps/portal/huyendaitu/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3jvkGB3ZzdTEwN_E0sLA0-jQHd3Y2cvTy9PM_2CbEdFAHGI4Ag!/WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/hdaitu/tnp_huyen_dai_tu_site_root/ttsk/97b0f1004eb3a653a6e7b7004090c36a]
==Chú thích==
{{tham khảo}}
{{Khởi nghĩa Lam Sơn}}
 
[[Thể loại:Người Thái Nguyên]]
[[Thể loại:Tướng nhà Lê sơ]]