Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Trung Quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8.5
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
(không hiển thị 3 phiên bản ở giữa của cùng người dùng)
Dòng 22:
Bằng chứng sớm nhất về việc trồng cấy [[kê]] tại Trung Quốc được [[xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ]] vào khoảng năm 6000 TCN, và có liên quan tới [[Văn hóa Bùi Lý Cương]] (裴李崗文化) ở huyện [[Tân Trịnh, Trịnh Châu|Tân Trịnh]], tỉnh [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]]. Cùng với [[nông nghiệp]], [[dân cư]] ngày càng đông đúc, tăng khả năng tích trữ và tái phân phối [[thực phẩm|lương thực]] và đủ cung cấp cho những người [[thợ thủ công]] cũng như [[quan lại]]. Cuối [[thời đại đồ đá|thời kỳ đồ đá mới]], vùng châu thổ [[Hoàng Hà]] bắt đầu trở thành một [[trung tâm văn hóa]], nơi những [[làng xã]] đầu tiên được thành lập; những [[di chỉ khảo cổ ở Trung Quốc|di tích khảo cổ]] đáng chú ý nhất của chúng được tìm thấy tại [[di chỉ Bán Pha]] (半坡遗址), [[Tây An]].
 
== Thời Tiên Tần ==
== Những nền văn minh đầu tiên ở Trung Quốc ==
::''Xem thêm: [[Danh sách các nền văn hóa thời đại đồ đá mới Trung Quốc]]''
[[Tập tin:Territories of Dynasties in China.gif|330px|nhỏ|Bản đồ vùng lãnh thổ Trung Quốc qua các triều đại khác nhau.]]
Dòng 50:
Trên thế giới, ra đời cùng thời với [[văn minh Trung Hoa]] còn có 3 nền văn minh khác là văn minh [[Ai Cập cổ đại]], [[văn minh Lưỡng Hà]] và [[Văn minh lưu vực sông Ấn]]. Tuy nhiên, cả ba nền văn minh đó đều đã bị diệt vong; các phong tục, tôn giáo và chữ viết cũng theo đó mà thất truyền từ lâu (Văn minh lưu vực sông Ấn sụp đổ vào khoảng năm 1.800 TCN, văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà bị diệt vong vào khoảng thế kỷ 1 TCN). Chỉ có văn minh Trung Hoa là vẫn tồn tại, phát triển và được kế tục cho tới ngày nay. Sau này, nhiều học giả phương Tây thời cận đại khi tìm hiểu về văn minh Trung Hoa đã phải kinh ngạc về sự tồn tại lâu dài của nó. [[Voltaire]] cho rằng: ''"Chúng ta nhận thấy rằng quốc gia ấy tồn tại một cách rực rỡ từ trên 4.000 năm rồi mà luật pháp, phong tục, ngôn ngữ, cách ăn mặc vẫn không thay đổi bao nhiêu..."'' Học giả Keyserling thì kết luận: ''"Chính ở Trung Hoa thời thượng cổ người ta đã tạo ra được những mẫu mực nhân loại thông thường hoàn bị nhất… Trung Quốc đã tạo dựng được một nền văn hóa cao nhất từ trước đến nay."''<ref>{{Chú thích web |url=https://sachsuthattphcm.com.vn/sach/van-minh-trung-hoa/ |ngày truy cập=2021-12-30 |tựa đề=Văn minh Trung Hoa |archive-date=2021-05-05 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210505072627/https://sachsuthattphcm.com.vn/sach/van-minh-trung-hoa/ |url-status=dead }}</ref> Khởi điểm văn hóa là nền [[Văn hóa Hồng Sơn]] ở phương Bắc đã manh nha cho cả Trung Hoa và Triều Tiên phát triển...
 
== Vương quốc ==
=== Nhà Hạ ===
[[Tập tin:Region of xia.svg|nhỏ|Trung Quốc thời nhà Hạ]]
Hàng 215 ⟶ 214:
Việc huấn luyện làm việc cho các nhân viên dân sự được tiến hành ở cấp quan liêu địa phương. Và việc thích hợp với truyền thống Khổng giáo đã trở thành một thứ để truyền dạy trong thời gian học việc. Một người trẻ tuổi chứng minh được mình có khả năng như một [[thư ký]] có thể được phong làm một nhà quản lý. Và sau khi đã chứng minh được khả năng quản lý của mình anh ta sẽ được thăng chức làm [[cố vấn]] và được tham dự vào triều đình, hay anh ta sẽ có một vị trí cao hơn trong một triều đình địa phương.
 
===== MởCon cửađường ra phía tâylụacác cuộc chiến mở rộng lãnhTây thổchinh =====
[[Tập tin:Zhang Qian.jpg|nhỏ|280px|Hành trình 138 TCN–126 TCN của [[Trương Khiên]] về phía tây, [[Hang Mộ Cao]], tranh tường 618–712.]]
Nhờ nền kinh tế thịnh vượng, Trung Quốc có nhiều khả năng hơn để chi phí chiến tranh. Vũ đế tin rằng ông đủ mạnh để không cần phải cống nạp cho Hung nô, vốn bắt đầu từ thời Lưu Bang nữa. Ông lo ngại rằng Hung nô có thể phái quân vào thảo nguyên miền bắc dân cư thưa thớt của Trung Quốc hay họ có thể lập thành liên minh với [[người Tạng]], và ông muốn lập nên một con đường thương mại nhằm buôn bán với vùng Trung Á bảo đảm được an toàn. Vì thế Vũ đế mở nhiều chiến dịch quân sự. Chúng được các tướng của ông ta chỉ huy, nhưng chúng lại mang lại cho Vũ đế sự công nhận như là một vị vua mạnh mẽ và can đảm.
Hàng 276 ⟶ 275:
===== Sự thịnh vượng quay trở lại =====
[[Tập tin:Guangwu.jpg||nhỏ|phải|200px|Quang Vũ Đế.]]
Năm 57, Lưu Tú chết. Ông được tôn [[thụy hiệu]] là Quang Vũ đế, và con trai ông là [[Hán Minh Đế|Minh Đế]] lên nối ngôi, cai trị trong vòng 18 năm, trong khi kinh tế Trung Quốc tiếp tục hồi phục. Thời cai trị của Minh Đế được coi là tàn bạo.{{fact|date=ngày 7 tháng 1 năm 2013}} Ông tự đồng hóa mình với Đạo giáo và thần học Khổng giáo, ông tự cho mình là một nhà tiên tri.{{fact|date=ngày 7 tháng 1 năm 2013}} Ông ủng hộ sự phát triển của cái mà hồi bấy giờ cho là giáo dục, và ông thuyết giảng về lịch sử tại trường đại học mới của đế quốc ở Lạc Dương - một buổi thuyết giảng có hàng ngàn người tham gia. Chương Đế nối ngôi Minh Đế và cai trị từ năm 75 đến 88. Hòa Đế tiếp tục nối ngôi từ 88 đến 106. Dù [[Hán Hòa Đế|Hòa Đế]] là một người tầm thường, Trung Quốc vẫn tiếp tục được hưởng sự thịnh vượng ngày càng tăng. Đại học ở Lạc Dương có đến 240 căn nhà và 30.000 sinh viên. Thương mại của Trung Quốc đạt tới tầm cao mới. Tơ từ Trung Quốc đã trở nên quen thuộc với những người ở tận vùng [[Đế chế Roma]] – lúc ấy cũng đang ở thời vàng son. Và đổi lại, Trung Quốc có được kính, ngọc bích, ngựa, đá quý, mai rùa và vải vóc.
 
Việc Trung Quốc trở nên thịnh vượng lại làm xuất hiện cố gắng mở rộng về phía tây. Một vị tướng quân đội Trung Quốc, [[Ban Siêu]], dẫn một đội quân sáu mươi nghìn người không hề bị ngăn cản đến tận bờ phía đông [[biển Caspi]]. Ông muốn gửi sứ thần đến tận Roma, nhưng người [[Đế quốc Parthia]] sợ sẽ có một liên minh giữa Trung Quốc và La Mã nên đã khuyên Ban Siêu từ bỏ ý định với những câu chuyện thêu dệt về sự nguy hiểm, và ông đã quay lại.
Hàng 285 ⟶ 284:
Một câu chuyện như vậy miêu tả thiên đường dọc theo bờ biển viễn đông bắc Trung Quốc. Thời tiết ở đó êm dịu hơn trong đất liền, và họ nói rằng ở đó không hề có bệnh tật, con người không bao giờ đau ốm và tự quản lý lấy mình. Họ nói rằng ở thiên đường đó người già và người trẻ đều có quyền như nhau, rằng người dân thì lịch sự và không cãi cọ, rằng không bao giờ có xung đột giữa con người và thiên nhiên, rằng con người nhận được số lương thực mà họ cần từ một dòng sông từ thiện, rằng uống nước từ con sông đó có thể làm thân thể con người có lại sự hoàn hảo và khoẻ mạnh của tuổi thanh xuân, và rằng con người ở đó sống lâu hàng trăm tuổi.
 
Một thiên đường khác được đồn đại là ở vùng núi Tây Tạng xa xôi. Ở đó, có thiên đường do Tây vương mẫu cai trị; bà có rất nhiều người hầu kẻ hạ. Ở thiên đường đó, có gió mát thổi – trái với ẩm và nóng ở vùng lục địa và châu thổ Trung Hoa vào mùa hè. Họ cho rằng ở thiên đường đó có những vườn treo, với những ao và hồ tuyệt đẹp, rằng nước ở đó cho người ta sự bất tử, rằng mọi người có thể trèo lên đỉnh núi và trở thành thần linh có quyền lực đối với gió và mưa, và rằng mọi người có thể trèo sang đỉnh núi bên cạnh để lên thiên đường.[[Tập tin:Zhang Daoling.jpg|nhỏ|phải|200px|Trương Đạo Lăng.]]
 
===== Đạo giáo mới =====
[[Tập tin:Zhang Daoling.jpg|nhỏ|phải|200px|Trương Đạo Lăng.]]
Tín đồ Đạo giáo vẫn giữ niềm tin vào đức tin vào sự đồng điệu và sự an ủi của [[tự nhiên|thiên nhiên]]. Họ tin vào một [[số mệnh]] bên ngoài sự thay đổi liên tục của cuộc sống vật chất, và họ vẫn giữ niềm tin vào đức tin ở sự mộc mạc cảm xúc. Ví dụ, một người Đạo giáo mộ đạo sẽ vẫn giải thích việc anh ta không khóc cho người vợ vừa chết bằng cách nói rằng nếu anh ta khóc than như vậy thì sẽ chứng tỏ rằng anh ta còn kém hiểu biết về số mệnh. Đạo giáo vẫn giữ những sự bày tỏ trái ngược như vậy, và nó vẫn giữ các quan niệm chống Khổng giáo như [[con trai]] và [[con gái]] của một người thì không thuộc sở hữu của người đó.
 
Hàng 344 ⟶ 340:
Lưu Bị vốn là một thành viên trong Hán tộc, có tiếng là người nhân từ. Ông liên kết với Tôn Quyền để chống lại Tào Tháo hùng mạnh phía bắc và mưu thống nhất Trung Quốc. Tôn Quyền dựng lên nước Đông Ngô ở phía đông nam Trung Quốc và liên minh với Tào Tháo, người đã lập lên nhà Ngụy ở phía bắc - lấy theo tên nước Ngụy ở thời [[Chiến Quốc]] (475-221 TCN), còn [[Lưu Bị]] lập ra nhà Thục ở tỉnh [[Tứ Xuyên]]. Giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc được gọi là thời [[Tam Quốc]] bắt đầu từ đó.
 
===== Sự nổi lên và sụp đổ của một nhàNhà nước thần quyền độc lập của họ Trương =====
Tuy nhiên, dọc sông Dương Tử gần Tứ Xuyên, một nhánh thuộc Đạo giáo vẫn tồn tại với quân đội riêng đã lập nên một nhà nước thần quyền. Người sáng lập là [[Trương Lỗ]], hậu duệ của Trương Lăng. Giống như Trương Lăng, ông ta thực hiện những thứ mà ngày nay chúng ta gọi là chữa bệnh bằng cách thần bí, và ông ta thuyết giảng những thông điệp của Trương Lăng về cách có một tinh thần và thể chất khoẻ mạnh, tuyên bố rằng các bệnh tật là sự trừng phạt cho những hành vi xấu xa và rằng bệnh tật có thể được chữa trị bằng sự ăn năn và sự thú tội ở các buổi lễ. Cộng đồng của Trương Lỗ có những bữa ăn tập thể, "thân mật", và giống như Trương Lăng, ông ta có hệ thống phúc lợi cho cộng đồng của mình và tích trữ lương thực và thịt. Ông thúc đẩy sự công bằng. Cộng đồng của ông cho những kẻ lang thang không nhà một chỗ trú ngụ và bữa ăn, và họ tỏ ra khoan dung đối với những kẻ phạm tội.
 
Một người theo Đạo giáo khác, Trương Tu lập ra một nhà nước độc lập khác ở bên cạnh. Dù họ có chung sự sùng bái đối với Đạo giáo, nhưng hai cộng đồng [[Trương Lỗ]] và Trương Tu lại đánh lẫn nhau. Trương Lỗ, như kể lại, đã giết được Trương Tu. Ngay sau đó, Trương Lỗ có một đối thủ còn kinh khủng hơn, Tào Tháo. Với quân đội của mình, Tào Tháo chiếm đất đai của Trương Lỗ. Trương Lỗ đầu hàng Tào Tháo và được ban thưởng thái ấp. Lịch sử kể rằng Trương Lỗ chết một thời gian ngắn sau đó – năm 217. Và có truyền thuyết nói rằng 26 năm sau khi ông chết, nhiều người đã thấy ông bay lên trời. Truyền thuyết cũng nói rằng, khi khai quật mộ ông vào năm 259, thân thể ông vẫn còn nguyên vẹn, có nghĩa là ông chỉ chết theo nghĩa ông đã tách khỏi thể xác và đã lên thiên đường.{{fact}}
 
=== Nhà Tấn ===
Hàng 448 ⟶ 444:
[[Tập tin:Li Shiming Fountain Memory.jpg|nhỏ|trái|200px|Một tấm bia khắc những dòng chữ [[thư pháp]] của Hoàng đế [[Đường Thái Tông|Thái tông]].]]
 
==== Đường Cao Tổ (618 - 626) ====
Năm 618, cuộc nội chiến kết thúc, Đường quốc công [[Đường Cao Tổ|Lý Uyên]] là người thắng trận. Ông tái thống nhất Trung Quốc, mở đầu thời đại [[nhà Đường]] và được tôn xưng là [[Đường Cao Tổ]]. Tuy nhiên, các con ông lại đánh nhau để giành quyền thừa kế ngai vàng. Hai người con trai của ông là Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát đã thiệt mạng trong cuộc tranh giành quyền lực này. Lý Uyên chỉ còn một sự lựa chon duy nhất là [[Đường Thái Tông|Lý Thế Dân]], con trai dòng đích duy nhất còn sống sót.<ref>Lý Uyên có chín người con trai, trong đó 6 người con sau đều sinh vào những năm cuối đời ông nên khi đó còn rất nhỏ hoặc chưa ra đời</ref> Năm 626, Lý Uyên nhường ngôi cho Lý Thế Dân, người mà về sau đã đưa đất nước Trung Quốc quay trở lại thời thịnh vượng và vàng son.
 
Hàng 465 ⟶ 461:
Khi tuổi đã già, nữ hoàng họ Võ mất dần quyền kiểm soát triểu đình, và năm 705 các quan lại ở triều buộc bà rút lui để trả lại ngôi vua cho một người con của bà là Lý Hiển, vốn đã bị bà phế truất vào năm 684.
 
==== BiếnTrung loạnTông trong hoàng tộcHiển (705 - 712) ====
Trung Tông Lý Hiển trở lại ngai vàng và cai trị tới tận khi ông chết vào năm 710 - vợ ông, hoàng hậu họ Vi, bị nghi ngờ đã đầu độc ông. Vi hậu tìm cách cai trị giống như Võ hậu. Bà bán chức tước và quyền làm sư sãi, và bà cũng đứng đằng sau những vụ tham nhũng trong triều. Bà đã tạo ra các đối thủ mà bà không thể tiêu diệt, và họ đã tập hợp lực lượng để làm cuộc đảo chính giết chết Vi hậu, đưa vị vua vốn cũng bị Võ Tắc Thiên phế truất là Lý Đán trở lại ngai vàng.
 
Đến lượt các đồng minh này lại đánh nhau. Tuy nhiên, cuộc tranh giành quyền lực nhanh chóng kết thúc với ưu thế tuyệt đối của một hoàng tử nhà Đường, người được kế thừa ngôi vua vào năm 712, Huyền Tông Lý Long Cơ.
 
==== ThịnhHuyền ĐườngTông Lý Long Cơ (712 - 755) ====
Huyền Tông lên nắm quyền ở tuổi 28 và ở ngôi 44 năm. Ông năng động và can đảm, và dưới thời ông, sự thịnh vượng quay trở lại. Nhưng vào những năm cuối đời ông ngày càng bị lôi cuốn vào tư tưởng Đạo giáo và không quan tâm đến cai trị nữa. Sau năm 745 ông say mê một người thiếp của mình là Dương Quý Phi và bỏ rơi triều chính. Triều đình trở nên hỗn loạn bởi sự tranh giành ảnh hưởng của các đại thần trong triều và các quân phiệt địa phương. Trung Quốc nhanh chóng lại rơi vào tình trạng suy sụp.
 
Hàng 477 ⟶ 473:
Trong cuộc tranh giành quyền lực triều đình, bất ngờ trỗi lên một lực lượng thứ ba. Đó là nhóm các vị hoạn quan. Nhóm này tỏ ra biết các luồn lách khéo léo, lợi dụng của hai bên kia để nắm được quyền lực triều đình. Ở những năm cuối của triều Đường, các hoạn quan hoàn toàn thao túng triều đình, thậm chí có thể lựa chọn người sẽ lên làm vua. Trong 22 vị hoàng đế của nhà Đường, thì đã có 10 vị do các hoạn quan lập nên. Tất cả đều ở những năm cuối cùng của triều Đường.
 
==== Mầm mống suy vong xuất hiện ====
Từ năm 742 (niên hiệu Thiên Bảo), Huyền Tông sa vào hưởng lạc, đồng thời giai cấp thống trị nhà Đường cũng có cuộc sống xa hoa. Sự tiêu pha lãng phí của triều đình tuy vậy lại trái ngược với đời sống của dân chúng do họ đã bị vắt kiệt qua sưu cao thuế nặng khiến nhiều người bỏ trốn, chế độ binh dịch lại trở nên nặng nề để phục vụ cho những cuộc chiến với các nước khác.
 
Hàng 486 ⟶ 481:
==== Loạn An - Sử (755 - 762) ====
 
==== '''TạmHuyền trịTông lần- 1Túc Tông - Hiến Tông (762 - 820)''' ====
Từ sau loạn An - Sử, nhà Đường bắt đầu suy vi liên tục khi chứng kiến quyền lực của các tiết độ sứ địa phương ngày càng gia tăng, đồng thời quyền lực của thế lực hoạn quan nổi lên từ cuối thời Đường Huyền Tông bắt đầu thao túng triều đình và lấn át cả quyền quyết định của hoàng đế, khiến nhà vua phải tiến hành các chiến dịch để tiêu diệt các hoạn quan lộng quyền. Các vua Đường từ Túc Tông đến Hiến Tông hầu như đều là các hoàng đế có năng lực, tuy nhiên những căn bệnh của đế quốc đã bị loạn An - Sử làm cho trở nên trầm trọng khiến cho những nỗ lực của triều đình chỉ đủ sức duy trì được ngai vàng. Trong thời kỳ này, tiêu biểu là [[sự biến Phụng Thiên]] do các trấn nổi dậy làm loạn đã khiến [[Đường Đức Tông]] phải chạy khỏi kinh thành đến Phụng Thiên (783) và cuộc loạn chính của tập đoàn hoạn quan buộc [[Đường Thuận Tông]] phải thoái vị (806), cuộc Vĩnh Trinh duy tân do ông khởi xướng cũng bị dừng lại. Dù vậy những cố gắng của họ đã tạo ra một thời kỳ ổn định tương đối kéo dài 58 năm (762 - 820), mà đỉnh cao là Nguyên Hòa trung hưng dưới thời Đường Hiến Tông (805 - 820), đây là thời kỳ các tiết độ sứ quy thuận triều đình trước khi cát cứ trở lại sau khi Hiến Tông qua đời.
 
==== TanMục Tông lần 1các con (820 - 846) ====
Sau Nguyên Hòa trung hưng nhà Đường bước vào giai đoạn tan rã bước đầu khi [[Đường Mục Tông]] lên ngôi và sau đó là ba người con trai của ông (Kính Tông, Văn Tông và Vũ Tông), thời kỳ này kéo dài 26 năm từ 820 đến 846 khi các tiết độ sứ trở lại uy hiếp triều đình và hoạn quan thực hiện việc giết vua (Kính Tông bị hoạn quan Lưu Khắc Minh ám sát). Đường Văn Tông và Vũ Tông đã thực hiện một số cải cách để cứu vãn đế quốc nhưng mang lại hiệu quả thấp, [[sự biến Cam Lộ]] dưới thời Văn Tông đã không thể tiêu diệt được hoạn quan khiến hoàng đế bị hoạn quan quản thúc cho đến khi qua đời. Đường Vũ Tông tiến hành chiến dịch đàn áp tôn giáo nhưng không đem lại hiệu quả thiết thực mà chỉ gây thêm sự bất mãn trong nhân dân. Trong thời [[Đường Vũ Tông|Vũ Tông Lý Viêm]], vốn là người theo [[Đạo giáo]], ông cho đóng cửa chùa Phật giáo, bắt sư sãi đạo Phật phải hoàn tục và tịch thu hàng triệu [[Mẫu (đơn vị đo)|mẫu]] đất trồng trọt cho nhà nước sử dụng. Đạo Phật ở Trung Quốc sống sót nhưng không bao giờ đạt lại được mức cũ, trong khi đối thủ của Phật giáo, Khổng giáo lại hồi phục lại trong giới trí thức.
 
Đạo giáo tuy được trọng dụng nhưng không phát triểu được thành quốc giáo. Tuy nhiên, những người theo Đạo giáo đã kiếm lợi được từ việc thực hiện các thí nghiệm hóa học. Những người theo Khổng giáo xem đó như là một phần của sự thô tục của Đạo giáo – như thuộc về những người bình dân. Những nhà Nho vốn có thành kiến xấu về khoa học, điều này đã làm cho khoa học ở Trung Quốc chậm phát triển. Nho giáo tin tưởng việc học tập tốt nhất là dành cho văn học và lịch sử - những kiểu văn học và lịch sử của họ.
 
==== TạmĐại trịTrung lầntạm 2trị (846 - 859) ====
Giai đoạn tan rã bước đầu tạm thời kết thúc khi Đường Tuyên Tông lên ngôi (846-859), ông vốn là con thứ 13 của Hiến Tông và đã sống an vị với tước hiệu Quang Vương trong suốt triều đại của anh ông (Mục Tông) và các con của Mục Tông, trong thời kỳ này ông thường được xem là bị đần. Nhưng Tuyên Tông đã bắt đầu hoàng vị của mình với sự thông sáng và mẫn tiệp lạ lùng, khiến cho các hoạn quan đưa ông lên ngôi - những kẻ âm mưu muốn chọn người đần độn để dễ bề thao túng, kinh hoàng tột độ. Vì thế trong thời này quyền hành của chúng tạm thời bị thu hẹp. Năm 847, nhà Đường thu phục được các vùng lãnh thổ bị Thổ Phiên chiếm được sau loạn An - Sử. Thời kỳ này được gọi là Đại Trung tạm trị. Tuyên Tông được đánh giá là hoàng đế giỏi thứ ba của nhà Đường sau Thái Tông và Huyền Tông.
 
Năm 859, Tuyên Tông mắc bệnh do lạm dụng đan dược nhằm mong trường sinh bất tử. Ông đã dự định lập con thứ tư Lý Tư làm người kế vị, nhưng phút cuối cùng Lý Ôn – người con vốn không được ông yêu quý đã lên ngôi sau khi Tuyên Tông băng đột ngột. [[Đường Ý Tông]] sớm tỏ ra là người nối ngôi không phù hợp với lối sống xa xỉ, bỏ bê triều chính. Nhà Đường bước vào giai đoạn tan rã lần hai trước khi sụp đổ hoàn toàn, giai đoạn này kéo dài 47 năm (860 - 907).
 
==== TanSuy rã lần 2vong (860 - 907) ====
Điểm nổi bật vương triều Ý Tông là sự xa xỉ và lòng sùng mộ Phật giáo cao độ của nhà vua. Nhưng ít nhất dưới thời ông những cuộc nổi loạn nhỏ như loạn Khang Toàn Thái nhanh chóng được dập tắt, đế quốc vẫn giữ được sự ổn định trên danh nghĩa. Vua Đường Hy Tông (873-888) kế vị là một thiếu niên chỉ chuyên tâm vào các trò giải trí và thể thao trong cung cùng những hoạn quan, ông không dành sự quan tâm nào đến những lời cảnh báo nghiêm trọng từ các đại thần, triều đình có thực hiện một số hoạt động xoa dịu nạn đói đang lan tràn nhưng không mấy hiệu quả. Thời kỳ tan rã lần hai này chứng kiến những sự kiện thảm khốc nhất trong lịch sử nhà Đường bao gồm sự biến [[Biến Bàng Huân|Bàng Huân]] và đỉnh cao là [[loạn Hoàng Sào]] (875 - 884) đã đánh một đòn trí mạng vào chút quyền lực còn sót lại của nhà Đường, đã tàn phá nghiêm trọng trên toàn lãnh thổ bao gồm cả Quảng Châu, là một trung tâm ngoại thương quan trọng của chính quyền. Vua [[Đường Hy Tông]] đã phải chạy trốn trước sự uy hiếp của quân nổi loạn, một sự kiện tương tự như cuộc trốn chạy của Đường Huyền Tông trong loạn An - Sử hơn 100 năm trước. Hoàng Sào thậm chí đã chiếm được Trường An, xưng đế và đặt quốc hiệu Đại Tề, bề ngoài tuy hô hào vì bách tính nhưng triều chính mau chóng hủ bại ngay khi chiếm được kinh đô, chỉ biết tàn sát dân chúng. Tuy cuộc nổi loạn cuối cùng bị dẹp tan nhưng một tướng của Hoàng Sào đã đầu hàng triều đình là [[Hậu Lương Thái Tổ|Chu Ôn]] đã nhanh chóng nắm được quyền trong triều, sau này Chu Ôn cướp ngôi và thành Thái Tổ [[Nhà Hậu Lương]].