Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dòng họ Bùi ở Thịnh Liệt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Gỡ bản mẫu theo kết quả biểu quyết (AfDCloser)
 
(Không hiển thị 30 phiên bản của 4 người dùng ở giữa)
Dòng 1:
'''Dòng họ Bùi ở làng Thịnh Liệt''' hoặc '''Họ Bùi làng Sét''',<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Nguyễn|first=Thị Hiền|date=2008|title=Hệ thống thể loại trong tác phẩm Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích|url=http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1743&Catid=750|journal=Thông báo Hán Nôm|pages=354|issn=1022-8640|via=}}</ref> là một dòng họ khoa bảng có truyền thống lâu đời ở [[Việt Nam]],<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Tăng|first=Chánh Tín|date=2015-09-25|title=Văn hóa dòng họ ở Đà Nẵng: Những vấn đề lý luận và thực tiễn|url=https://jshe.ued.udn.vn/index.php/jshe/article/view/574/533|journal=Tạp chí Khoa học xã hội, Nhân văn và Giáo dục|volume=5|issue=3|pages=92|issn=1859 -4603|via=UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education}}</ref> đã đóng góp nhiều nhân vật quan trọng cho các triều đại [[Quân chủ Việt Nam|phong kiến Việt Nam]] trong thời gian từ đầu [[thế kỷ 15]] đến đầu [[thế kỷ 20]],<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Nhiều tác giả|date=2003|title=|journal=Tạp chí văn học|publisher=[[Viện Văn học (Việt Nam)|Viện Văn học]]|publication-place=Hà Nội|volume=151 – 156|pages=77|via=[[Google Books]]}}</ref> cũng như nhiều văn hào, tác gia… của nền [[văn hóa Việt Nam]] trong năm thế kỷ đó.<ref>{{Chú thích sách|url=https://www.google.com.vn/books/edition/T%C3%A2m_tr%E1%BA%A1ng_D%C6%B0%C6%A1ng_Khu%C3%AA_D%C6%B0%C6%A1ng_L%C3%A2m/5dxgFhaNcjsC?hl=vi&gbpv=0&bsq=T%C3%A2m%20tr%E1%BA%A1ng%20D%C6%B0%C6%A1ng%20Khu%C3%AA%20D%C6%B0%C6%A1ng%20L%C3%A2m|title=Tâm trạng Dương Khuê Dương Lâm|last=Dương Thiệu Tống|publisher=Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội|year=2000|pages=18|oclc=470974889|author-link=Dương Thiệu Tống}}</ref><ref name=":1">{{Chú thích sách|url=https://www.google.com.vn/books/edition/C%C3%A1c_l%C3%A0ng_khoa_b%E1%BA%A3ng_Th%C4%83ng_Long_H%C3%A0_N/NcSdAAAAMAAJ?hl=vi&gbpv=1&bsq=%22h%E1%BB%8D%20B%C3%B9i%20Th%E1%BB%8Bnh%20Li%E1%BB%87t%22|title=Các làng khoa bảng Thăng Long-Hà Nội|publisher=Nhà xuất bản Chính trị quốc gia|year=2004|location=Hà Nội|pages=446|oclc=60590452|authors=Bùi Xuân Đính, Nguyễn Viết Chức}}</ref> Gia tộc này đã được nhắc đến trong nhiều sách và tài liệu như ''Kiến văn tiểu lục'' của [[Lê Quý Đôn]], ''[[Lịch triều hiến chương loại chí]]'' của [[Phan Huy Chú]],...
{{thiếu nguồn gốc}}{{dnb}}
'''Họ Bùi Thịnh Liệt''' hoặc '''Họ Bùi làng Sét''', là một dòng họ nổi tiếng đã đóng góp nhiều nhân vật quan trọng cho các Triều đại trong thời gian từ đầu [[thế kỷ 15]] đến đầu [[thế kỷ 20]], cũng như nhiều văn hào, tác gia… của nền [[văn hóa Việt Nam]] trong 5 thế kỷ đó. Gia tộc này đã được nhắc đến trong nhiều sách và tài liệu như ''Kiến văn tiểu lục'' của [[Lê Quý Đôn]], ''[[Lịch triều hiến chương loại chí]]'' của [[Phan Huy Chú]], cũng như nhiều bài báo khác.
 
==Nguồn gốc==
Dựa theo [[gia phả]] Bùi Thị Gia phả do Bùi Huy Bích ghi chép lưu trữ tại Viện Hán Nôm thì nguồn gốc của họ Bùi làng Thịnh Liệt là từ làng Cát Xuyên, huyện Hoàng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là huyện [[Hoằng Hóa của]], tỉnh [[Thanh Hóa]]),.<ref>{{Chú thích web|url=https://giaoducthudo.giaoducthoidai.vn/vi-dai-khoa-nhan-tin-bao-do-khi-dang-cay-ruong-38081.html|tựa đề=Vị đại khoa nhận tin báo đỗ khi đang cày ruộng|tác giả=Trần Hoà|ngày=2023-03-27|website=Giáo dục & Thời đại|url-status=live|ngày truy cập=2023-07-10|trích dẫn=}}</ref><ref name=":0" /><ref>{{Chú thích web|url=https://baothanhhoa.vn/tim-hieu-990-nam-danh-xung-thanh-hoa/thanh-hoa-thang-long-moi-luong-duyen-nghin-nam/100578.htm|tựa đề=Thanh Hóa - Thăng Long: “Mối lương duyên nghìn năm”|tác giả=Vĩnh Thịnh|ngày=2019-05-08|website=Báo Thanh Hóa|url-status=live|ngày truy cập=2023-07-17}}</ref> Viễn tổ của dòng họ (khuyết tên) gia tộc này vốn làm nghề thuốc,<ref name=":1" /> di cư đến Xã Định Công, huyện Thanh Đàm (sau này là Thanh Trì), phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (gần thành [[Thăng Long]]). Sau đó chuyển sang xã Thịnh Liệt cư trú tại đây, khu vực cư trú sau thành thôn Bùi Đông, sau đó có tên là Làng Giáp Nhị gắn bó với lịch sử của dòng họ này.<ref name=":0">{{Chú thích web|url=https://hanoimoi.vn/dong-ho-bui-danh-tieng-o-lang-giap-nhi-thinh-liet-118028.html|tựa đề=Dòng họ Bùi danh tiếng ở làng Giáp Nhị, Thịnh Liệt|tác giả=AnhThu|họ=|ngày=2006-12-16|website=[[Hànộimới]]|ngôn ngữ=vi|url-status=live|ngày truy cập=2023-06-24}}</ref>
 
Viễn tổ có tên hiệu Chí Đức, sống trong khoảng từ cuối [[thế kỷ 14]] đến giữa [[thế kỷ 15]] và là người đã mang gia đình từ Thanh Hóa đến gần Thăng Long. Ông nổi tiếng khi còn trẻ là một người có sức khoẻkhỏe phi thường và biết võ nghệ. Theo truyện kể lại thì ông đã một mình đánh đuổi một đàn [[trâu]] rừng để cứu con gái của Hoàng Công Thục – một võ tướng của [[nhà Trần]]. Vì công này, tướng Hoàng Công Thục gả con gái của mình. Bà Ngọc Trân cũng còn là cháu ngoại của vua Trần khi đó.<ref>{{Chú thích web|url=https://nguoihanoi.com.vn/mot-dong-ho-khoa-bang-tren-dat-thang-long-ha-noi-1542.html|tựa đề=Một dòng họ khoa bảng trên đất Thăng Long - Hà Nội|tác giả=Nguyễn Tô Hoài|họ=|ngày=2022-04-11|website=Người Hà Nội|ngôn ngữ=vi|url-status=live|ngày truy cập=2023-06-24}}</ref>
 
Viễn tổ Chí Đức sinh con trai là Trung Thức. Theo truyện kể lại thì có một [[ngườiNgười HoaTrung Quốc|người Trung Hoa]] thông hiểu về [[phong thủy|phong thủy]], vì muốn trả ơn cho Trung Thức, đã đề nghị cho Trung Thức hai vùng phúc địa – một vùng sẽ tạo ra một vị vua trong các người con cháu, còn vùng kia sẽ tạo ra nhiều thế hệ có nhiều danh nhân – và Trung Thức đã chọn vùng phúc địa thứ hai. Nghe theo lời, Trung Thức dọn gia đình sang làng Thịnh Liệt, lúc đó chỉ là một khu đầm lầy với gia đình của Cao Lệnh Côngcông đang ở. Sau khi dọn sang Thịnh Liệt, Trung Thức lấy con gái họ Cao là Cao Thục Tịnh. Về sau, khi gia đình trở nên quý hiển có nhiều con cháu làm quan trong triều, Trung Thức được vua [[nhà Hậu Lê]] phong [[tước]] Diễn Phúc , chức [[Thị lang|Tả Thịthị Langlang]] và tên hiệu là Tả Dụ; do đó Trung Thức còn được biết với tên Tả Dụ.
 
==Danh nhân qua nhiều thế hệ==
Từ khi định cư tại làng Thịnh Liệt, gia tộc họ Bùi này đã đóng góp nhiều nhân vật trong [[lịch sử Việt Nam]].<ref>{{Chú thích sách|url=https://www.google.com.vn/books/edition/V%C4%83n_h%C3%B3a_gia_%C4%91%C3%ACnh_d%C3%B2ng_h%E1%BB%8D_v%C3%A0_gia/bIl0z1pUCK8C?hl=vi&gbpv=1&bsq=%22H%E1%BB%8D+B%C3%B9i+l%C3%A0ng+Th%E1%BB%8Bnh+Li%E1%BB%87t%22&dq=%22H%E1%BB%8D+B%C3%B9i+l%C3%A0ng+Th%E1%BB%8Bnh+Li%E1%BB%87t%22&printsec=frontcover|title=Văn hóa gia đình dòng họ và gia phả Việt Nam|publisher=Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh|year=2015|location=Thành phố Hồ Chí Minh|pages=562|oclc=945618276|authors=Nguyễn Văn Hiệu, Hoàng Văn Lễ, Võ Văn Sen, Mạc Đường}}</ref> Số người làm quan trong dòng họ rất nhiều nhưng các người giữ chức vụ quan trọng và tiêu biểu trong triều đình là các người sau đây:<ref>{{Chú thích web|url=https://hanoimoi.vn/lang-giap-nhi-28781.html|tựa đề=Làng Giáp Nhị|tác giả=HongHai|họ=|ngày=2004-02-10|website=[[Hànộimới]]|ngôn ngữ=vi|url-status=live|ngày truy cập=2023-06-24}}</ref><ref name=":0" />
 
*[[Bùi Xương Trạch]] (1451-1529): con trai lớn của Diễn Phúc Tả Dụ (hay Trung Thức). Ông làm quan trong triều nhà Hậu Lê, giữ các chức vụ như [[Đông các Học sĩ]], [[Thượng thư]] bộ Binh, [[Tế tửu]] [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Quốc Tử Giám]]... cũng như Thượng thư Trưởng Lục bộ (một chức vụ quan trọng điều khiển cả sáu bộ, tương đương như [[Tể tướng]]) kiêm [[Đô Ngựngự sử]], và được vua phong tước Quảng Văn Hầuhầu. Ông nổi tiếng thanh liêm, được nhiều người kính phục và được nhắc đến trong nhiều tài liệu lịch sử. Khi chết ông được phong tặng chức [[Thái phó]], tước Quảng Quốc Côngcông và tên hiệu là Văn Lượng.
*Quan Quốc Tử Giám bạ (1464-1552): em cùng cha khác mẹ của Bùi Xương Trạch; không biết tên, chỉ biết qua tên của chức vụ vì ông giữ chức [[Giám bạ]] cho [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Quốc Tử Giám]]. Ông đỗ kỳ [[thi Hương]] năm 1492 và sau đó vào đến tam trường cho [[thi Hội]] nhưng không đỗ [[tiến sĩ]].
*[[Bùi Trụ]] (khoảng từ đầu đến giữa thế kỷ 16): con trai lớn của Bùi Xương Trạch. Ông làm quan đến chức Thượng thư [[bộ Hộ]]. Khi chết ông được phong tặng chức [[Thái bảo]], tước Kính Quận Côngcông.
*[[Bùi Vịnh]] (1508-1545): con trai thứ của Bùi Xương Trạch. Ông làm quan đến chức Tả Thị lang bộ Hộ kiêm Tả Xuân phường, sau này đến chức Đông các Đại học sĩ, tước Mai Lĩnh Hầuhầu. Khi chết ông được phong tặng chức Thái bảo, tước Mai Quận Côngcông.
*[[Bùi Bỉnh Uyên]] (1520-1613): con của Bùi Vịnh; đỗ thi Hương nhưng không đi thi Hội vì đang có [[hàmĐám lượng giáctang|tang]]. Ông đã làm quan lúc ban đầu với [[nhà Mạc]] nhưng cùng bác là [[Bùi Trụ]] và cha vợ là Lê Bá Ly vào Thanh Hóa năm 1550 để lập lại nhà Lê. Sau này ông làm quan đến các chức Thượng thư Bộ binh, Tham tụng..., và được phong tước Tiên Quận Côngcông. Ông làm quan trong ba đời vua Lê và bốn đời [[Chúachúa Trịnh]]; tất cả bảy người con của ông đều là võ tướng được phong tước.
*[[Bùi Bỉnh Quân]] (1580-1630): cháu bốn đời của Bùi Xương Trạch, làm quan đến chức [[Phụng thiên Phủ doãn]]. Ông chết trong khi đi sứ nhà Minh và được phong tặng chức Hữu Thị Langlang.
*[[Bùi Bỉnh Trục]] (1730-1815): làm quan đến chức [[Tự thừa]].
*[[Bùi Huy Bích]] (1744-1818): cháu bảy đời của Bùi Xương Trạch, làm quan đến các chức [[Đốc đồng]] [[Nghệ An]], [[Tham tụng]]... và được phong tước Kế Liệt Hầuhầu. Sau khi thudẹp xếp êmyên nạn kiêu binh năm 1785, ông được phong chức [[Đồng binh Chương sự]] kiêm Tham tụng, nhưng ông từ chối để về hưu. Ông được nhắc đến trong nhiều tài liệu về văn học và lịch sử Việt Nam.
*Bùi Phổ (1776-1836): làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình.
*Bùi Bành (1866-1935): giữ chức [[Án sát]] của nhiều tỉnh cũng như Hiệp lý [[Hà Nội]] và Tuần phủ [[Yên Bái]] dưới thời [[nhà Nguyễn]].
 
Các bia tiến sĩ tại [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Văn Miếu Hà Nội]] còn ghi tên của bốn vị tiến sĩ của dòng họ này:
*Bùi Xương Trạch: [[Tiến sĩ Nho học|đệ tam giáp tiến sĩ]] năm 1478,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1194&Catid=564|tựa đề=6- VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA MẬU TUẤT NIÊN HIỆU HỒNG ĐỨC NĂM THỨ 9 (1478)|ngày=2009-01-25|website=[[Viện nghiên cứu Hán Nôm]]|url-status=live|ngày truy cập=2023-07-15}}</ref>
*Bùi Xương Trạch: [[đệ tam giáp tiến sĩ]] năm 1478,
*Bùi Vịnh: [[bảng nhãn]] năm 1532,
*Bùi Bỉnh Quân: tiến sĩ năm 1619, và<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1170&Catid=564|tựa đề=30- VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA KỶ MÙI NIÊN HIỆU HOẰNG ĐỊNH NĂM THỨ 20 (1619)|ngày=2009-01-22|website=[[Viện Nghiên cứu Hán Nôm]]|url-status=live|ngày truy cập=2023-07-15}}</ref>
*Bùi Bỉnh Quân: tiến sĩ năm 1619, và
*Bùi Huy Bích: [[hoàng giáp]] năm 1769.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1121&Catid=564|tựa đề=78- VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA KỶ SỬU NIÊN HIỆU CẢNH HƯNG NĂM THỨ 30 (1769)|ngày=2009-01-19|website=[[Viện Nghiên cứu Hán Nôm]]|url-status=live|ngày truy cập=2023-07-15}}</ref>
*Bùi Huy Bích: [[hoàng giáp]] năm 1769.
 
Số người đỗ cử nhân trong các kỳ thi Hương cũng khoảng 20 người, như: Bùi Trụ, Bùi Bỉnh Uyên, Bùi Xuân Nghị, Bùi Xương Tự, Bùi Nhữ Tích, Bùi Ngạn Cơ, Bùi Phổ, Bùi Bành...
Hàng 33 ⟶ 32:
Ngoài ra, dòng họ này cũng đóng góp rất nhiều vào văn hóa và [[văn học Việt Nam]] với các tác gia. Nổi tiếng nhất là Bùi Huy Bích (''Tồn am thi văn tập'', ''Hoàng Việt thi tuyển'', ''Hoàng Việt văn tuyển'',...), Bùi Bỉnh Trục (''Đản Trai trích đối'', ''Đản Trai công thi tập''), Bùi Phổ (''Mão Hiên văn tập'', ''Mão Hiên chuyết bút'', ''Bùi thị gia phả''...); sau đó là Bùi Vịnh (''Đế đô hình thắng'', ''Cung trung bảo huấn''), Bùi Nhữ Tích (''Minh đô thi''), Bùi Xương Trạch (bài ký đình Quảng Văn tại cửa Đại Hưng của thành Thăng Long); và nhiều văn hào khác.
 
Trong sách ''Danh nhân Hà Nội'' có nhắc đến Bùi Liêm cũng thuộc gia tộc này. Bùi Liêm (1881-1916) là cháu 10 đời của quan Quốc Tử Giám bạ. Trong thời gian Pháp thuộc, ông tham gia phong trào [[Đông Kinh Nghĩa Thục]] và [[phong trào Đông Du|phong trào Đông du]] của [[Phan Bội Châu]].<ref>{{Chú thích sách|url=https://www.google.com.vn/books/edition/H%C3%A0_N%E1%BB%99i_n%E1%BB%ADa_%C4%91%C3%A0%CC%82u_th%C3%A9%CC%82_k%E1%BB%B7_XX/uEZRAQAAMAAJ?hl=vi&gbpv=1&bsq=%22B%C3%B9i%20Li%C3%AAm%22|title=Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX|last=Nguyễn|first=Văn Uẩn|publisher=Nhà xuất bản Hà Nội|year=1995|volume=3|location=Hà Nội|pages=795|oclc=34850276}}</ref> Năm 1912, ông sang [[Trung Quốc]] để gia nhập [[Việt Nam Quang phục Hội|Việt Nam Quang Phục Hội]]. Ông bị bắt khi trở về nước năm 1915 và bị xử bắn vào ngày 8 tháng 11 năm 1916.<ref>{{Chú thích sách|url=https://www.google.com.vn/books/edition/Giai_tho%E1%BA%A1i_k%E1%BA%BB_s%C4%A9_Vi%E1%BB%87t_Nam/nwdIAAAAMAAJ?hl=vi&gbpv=1&bsq=%22B%C3%B9i%20Li%C3%AAm%22|title=Giai thoại kẻ sĩ Việt Nam|publisher=Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc|year=1997|location=Hà Nội|pages=998|oclc=44811848|authors=Thái Doãn Hiểu, Hoàng Liên}}</ref>
 
Trong số các làng văn hiến tại [[Miền Bắc (Việt Nam)|Bắc Việt]], làng Giáp Nhị - Thịnh Liệt là một trong số ít những làng có cả văn chỉ lẫn thọ chỉ. Thọ chỉ, giống như văn chỉ, là một [[đền|gò đất]] lộ thiên có văn bia (để phần biệt với văn từ và thọ từ) trong cuộc trấn hưng Nho Giáogiáo thời Lê Trungtrung Hưnghưng do Tham tụng Bùi Huy Bích chấp chính đề xướng dùng để tôn vinh Nho giáo, các danh nhân khoa bảng, Thọ chỉ để tôn vinh các người lớn tuổi – từ 70 tuổi hay hơn nhưng đặc biệt là các người trênthọ bách 100niên.
==Làng Giáp Nhị - Thịnh Liệt theo thời gian==
Trước thế kỷ XV, Thịnh Liệt gọi là động Cổ Liệt, giáp với động Mơ - Mai Động phía đông bắc. Tại đây Hồ Hán Thương có ý định xây cung điện để rời Tây Đô về Cổ Liệt - Huyện Long Đàm. Đến cuối thế kỷ XVI, Huyện Long Đàm đổi tên thành Thanh Trì, động Cổ Liệt đổi thành Thịnh Liệt. Mỗi làng trong xã Thịnh Liệt có một họ chính, đông đinh. Vì thế, tên họ được gọi cho tên Làng trước khi phân thành các giáp thời nhà Nguyễn: Giáp Nhất trước được gọi Thôn Bùi Tây; Giáp Nhị - Bùi Đông; Giáp Tam - Đỗ Trung; Giáp Tứ - Đỗ Nội; Giáp Ngũ - Đỗ Ngoại; Giáp Lục - làng Sét; Giáp Thất - Lê thôn...Đầu thế kỷ XX, chỉ còn lại Giáp Nhất, Giáp Nhị, Giáp Tứ; Giáp Lục và Giáp Bát vì Giáp Tam và Giáp Ngũ nhập vào Giáp Nhị, Giáp Thất nhập vào Giáp Bát. Năm thôn này được nâng lên thành 5 xã độc lập, cùng với xã Tương Mai hợp thành tổng Thịnh Liệt, còn gọi là tổng Sét, huyện Thanh Trì. ". Gia tộc họ Bùi Thịnh Liệt này bắt đầu từ thôn Bùi Đông và trở thành Giáp Nhị (đến nay).
 
Nhà thờ của họ Bùi trong làng được vua [[Lê Hiển Tông]] phong một bức hoành phi có bốn chữ "Sơn Nam Vọng Tộc" treo ở cửa [[từ đường]] để chỉ một dòng họ nhiều danh vọng của trấn Sơn Nam.<ref>{{Chú thích sách|title=Danh nhân Hà Nội|last=Vũ|first=Khiêu|publisher=Nhà xuất bản Hà Nội|year=2004|location=Hà Nội|pages=342|oclc=58535486|quote=Ở nhà thờ họ Bùi, chi Giáp, tại làng Nhị tức làng Giáp Nhị nay thuộc xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì có bức hoành phi đề 4 chữ “Sơn Nam vọng tộc ” (họ có danh vọng tại đất Sơn Nam).|author-link=Vũ Khiêu}}</ref><ref>{{Chú thích sách|url=https://www.google.com.vn/books/edition/%E1%BA%A4n_t%C6%B0%E1%BB%A3ng_Th%C4%83ng_Long_H%C3%A0_N%E1%BB%99i/FUxRAQAAMAAJ?hl=vi&gbpv=1&bsq=%22S%C6%A1n%20Nam%20V%E1%BB%8Dng%20T%E1%BB%99c%22|title=Ấn tượng Thăng Long-Hà Nội|last=Bùi Việt Mỹ|publisher=Nhà xuất bản Lao động|year=2005|location=Hà Nội|pages=378|oclc=255525469|quote=Nhà thờ tổ Bùi Huy Bích có những đồ tự, gian thờ chính có hoành phi với 4 chữ lớn: Sơn Nam Vọng Tộc dòng họ có tiếng, được trọng vọng ở đất Sơn Nam...}}</ref><ref>{{Chú thích sách|url=https://www.google.com.vn/books/edition/D%C3%B2ng_v%C7%8En_Nguy%E1%BB%85n_Huy_%E1%BB%9F_tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_L/AltkAAAAMAAJ?hl=vi&gbpv=1&bsq=%22S%C6%A1n%20Nam%20V%E1%BB%8Dng%20t%E1%BB%99c%22|title=Dòng vǎn Nguyễn Huy ở Trường Lưu|last=Lại|first=Văn Hùng|publisher=Nhà xuất bản Khoa học xã hội|year=2000|location=Hà Nội|pages=273|oclc=49520767}}</ref><ref>{{Chú thích sách|title=Hànội xưa & nay|last=Vũ|first=Tuân Sán|publisher=Nhà xuất bản Hội nhà văn|year=2007|location=Hà Nội|pages=400|oclc=166889273|author-link=Vũ Tuân Sán}}</ref> Trấn Sơn Nam lúc đó bao gồm các tỉnh [[Nam Định]], [[Thái Bình]], [[Ninh Bình]], [[Hà Nam]] và [[Hà Đông]].
Trong số các làng văn hiến tại [[Miền Bắc (Việt Nam)|Bắc Việt]], làng Giáp Nhị - Thịnh Liệt là một trong số ít những làng có cả văn chỉ lẫn thọ chỉ. Thọ chỉ, giống như văn chỉ, là một [[đền|gò đất]] lộ thiên có văn bia (để phần biệt với văn từ và thọ từ) trong cuộc trấn hưng Nho Giáo thời Lê Trung Hưng do Tham tụng Bùi Huy Bích chấp chính đề xướng dùng để tôn vinh Nho giáo, các danh nhân khoa bảng, Thọ chỉ để tôn vinh các người lớn tuổi – từ 70 tuổi hay hơn nhưng đặc biệt là các người trên 100.
 
Nhà thờ của họ Bùi trong làng được vua [[Lê Hiển Tông]] phong một bức hoành phi có bốn chữ "Sơn Nam Vọng Tộc" để chỉ một dòng họ nhiều danh vọng của trấn Sơn Nam. Trấn Sơn Nam lúc đó bao gồm các tỉnh [[Nam Định]], [[Thái Bình]], [[Ninh Bình]], [[Hà Nam]] và [[Hà Đông]].
 
==Tham khảo==
{{tham khảo|30em}}
*Bùi Đăng Thái, ''600 năm họ Bùi – Giáp Nhị - Thịnh Liệt'' trong tạp chí ''Họ Bùi Việt Nam'', tập 4, tháng 12 năm 2005
*Anh Chi, ''Dòng họ Bùi danh tiếng ở làng Giáp Nhị, Thịnh Liệt'', trong tạp chí ''Hà Nội Mới'', 16 tháng 12 năm 2006
 
[[Thể loại:Dòng họ Bùi ở Thịnh Liệt| ]]
{{Chưa phân loại|date=tháng 10/2022}}
[[Thể loại:Gia tộc Việt Nam|Bùi, Thịnh Liệt]]
[[Thể loại:Người họ Bùi tại Việt Nam|Thịnh Liệt]]