Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lionel Messi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Task 3: Sửa lỗi chung (GeneralFixes1) (#TASK3QUEUE)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 74:
{{Loạt bài về Lionel Messi}}
 
'''Lionel Andrés Messi'''{{refn|group=ghi chú|Theo trang web FCBarcelona.com và cuốn tiểu sử ''Messi'' do nhà báo [[Guillem Balagué]] chấp bút, họ của anh là "Messi", dựa theo phong tục đặt tên của người Argentina.<ref name="BarcaProfile">{{Chú thích web |title=Profile: Lionel Andrés Messi |publisher=FC Barcelona |url=http://www.fcbarcelona.com/football/first-team/staff/players/messi |access-date=8 September 2015}}</ref>{{sfn|Balagué|2013|pp=32–37}} Nhiều nguồn khác, bao gồm một tài liệu năm 2014 của [[FIFA]], lại cho rằng họ của anh là "Messi Cuccittini".<ref>{{Chú thích web |title=2014 FIFA World Cup Brazil: List of Players |publisher=FIFA |date=10 June 2014 |page=2 |url=http://resources.fifa.com/mm/document/tournament/competition/02/36/33/44/fwc_2014_squadlists_neutral.pdf |archive-url=https://web.archive.org/web/20140625085714/http://resources.fifa.com/mm/document/tournament/competition/02/36/33/44/fwc_2014_squadlists_neutral.pdf |url-status=dead |archive-date=25 June 2014 |access-date=8 September 2015}}</ref> Sau khi thắng kiện vào năm 2017, công ty quản lý của Messi tuyên bố: "Cầu thủ bóng đá Lionel Andres Messi Cuccittini đã quyên góp tổng cộng 72.783,20 [[€]] cho tổ chức [[Bác sĩ không biên giới]]."<ref>{{chú thích báo |last=Marsden |first=Sam |url=http://www.espn.in/football/barcelona/story/3255615/lionel-messi-donates-70k-to-charity-after-winning-libel-case-against-newspaper |title=Messi donates to charity after libel case win |publisher=ESPN |date=2 November 2017|access-date=3 November 2017}}</ref>}} ({{IPA-es|ljoˈnel anˈdɾes ˈmesi|-|Lionel Andrés Messi - Name.ogg}}; sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987), còn được gọi là '''Leo Messi''', là một [[cầu thủ bóng đá]] chuyên nghiệp [[người Argentina]] hiện đang thi đấu ở vị trí [[Tiền đạo (bóng đá)|tiền đạo]] cho câu lạc bộ [[Ligue 1]] [[Paris Saint-Germain F.C.|Paris Saint-Germain]] và là [[Đội trưởng (bóng đá)|đội trưởng]] của [[đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina]]. Được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, Messi giữ kỷ lục 7 lần giành [[Quả bóng vàng châu Âu|Quả bóng vàng]],{{refn|group=ghi chú|Ngoài 4 [[Quả bóng vàng FIFA]], Messi còn nhận được cả [[Quả bóng vàng châu Âu]] của ''[[France Football]]'' và [[Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA|Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA]] vào cùng năm 2009 trước khi hai giải thưởng này được sáp nhập lại; cả hai giải đều ghi nhận anh là chủ nhân của 5 Quả bóng vàng (FIFA).<ref>{{cite magazine |first=Rémy |last=Lacombe |title=Messi, le Cinquième Élément |magazine=France Football |date=ngày 11 tháng 1 năm 2016 |url=http://www.francefootball.fr/news/messi-le-cinquieme-element/623615 |access-date=ngày 26 tháng 5 năm 2016}}</ref><ref>{{chú thích web |title=Messi, Lloyd, Luis Enrique and Ellis Triumph at FIFA Ballon d'Or 2015 |publisher=FIFA |date=ngày 11 tháng 1 năm 2016 |url=https://www.fifa.com/news/y=2016/m=1/news=messi-lloyd-luis-enrique-and-ellis-triumph-at-fifa-ballon-d-or-2015-2754944.html |access-date=ngày 26 tháng 5 năm 2016 |archive-date=2018-09-15 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180915085710/https://www.fifa.com/news/y=2016/m=1/news=messi-lloyd-luis-enrique-and-ellis-triumph-at-fifa-ballon-d-or-2015-2754944.html |url-status=dead }}</ref> Vào năm 2019, anh lần thứ sáu nhận được [[Quả bóng vàng 2019|Quả bóng vàng]], đồng thời giành giải [[Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của FIFA]], trước khi nhận được [[Quả bóng vàng châu Âu 2021|Quả bóng vàng]] thứ bảy vào năm 2021.}} 6 lần giành [[Chiếc giày vàng châu Âu]] và vào năm 2020 được xếp vào [[:en:Ballon d'Or Dream Team#First Team|Ballon d'Or Dream Team]]. Trước khi rời câu lạc bộ vào năm 2021, anh đã cống hiến toàn bộ sự nghiệp của mình cho [[FC Barcelona|Barcelona]], tại đây anh đã giành được kỷ lục [[Thành tích và kỷ lục của câu lạc bộ Barcelona|35 danh hiệu cấp câu lạc bộ]], bao gồm 10 [[La Liga]], 7 [[Copa del Rey]] và 4 [[UEFA Champions League]]. Với đất nước của mình, anh đã giành được danh hiệu [[Copa América 2021]] và [[FIFA World Cup 2022]]. Là một tay săn bàn lão luyện và cầu thủ kiến thiết xuất sắc, Messi đang nắm giữ kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất ở La Liga (474), ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải La Liga và cấp độ châu Âu (50), nhiều hat-trick nhất ở La Liga (36) và UEFA Champions League (8), nhiều pha kiến tạo nhất ở La Liga (192), nhiều pha kiến tạo nhất trong một mùa giải La Liga (21)<ref name=":1">{{chú thích web|date=ngày 20 tháng 7 năm 2020|title=Stats: Messi breaks two all-time records; Ramos' unique first this century|url=https://www.espn.com/soccer/blog-espn-fc-united/story/4141175/by-the-numbers-lionel-messi-breaks-two-all-time-records-sergio-ramos-unique-first-this-century|website=ESPN.com}}</ref> nhiều pha kiến tạo nhất ở [[Copa América]] (17). Anh cũng nắm giữ kỷ lục [[Danh sách cầu thủ bóng đá nam có 50 bàn thắng quốc tế trở lên|nam cầu thủ ghi nhiều bàn thắng quốc tế nhất]] khu vực Nam Mỹ (98). Anh đã ghi hơn [[Danh sách cầu thủ bóng đá có 500 bàn thắng trở lên|750 bàn thắng trong sự nghiệp]] cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia, đồng thời là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất từ trước đến nay cho một câu lạc bộ (672).
 
Sinh ra và lớn lên ở miền trung Argentina, Messi chuyển đến [[Tây Ban Nha]] và gia nhập Barcelona ở tuổi 13, anh đã có trận ra mắt đội một câu lạc bộ ở tuổi 17 vào ngày 16 tháng 10 năm 2004, khi được [[Frank Rijkaard]] tung vào sân. Anh dần là cầu thủ chủ chốt của câu lạc bộ trong ba năm tiếp theo. Trong [[FC Barcelona mùa giải 2008-09|mùa giải đầu tiên]] không bị gián đoạn bởi chấn thương, anh đã giúp Barcelona đạt được [[cú ăn ba (bóng đá)|cú ăn ba]] đầu tiên của bóng đá Tây Ban Nha; vào năm đó, ở tuổi 22, Messi đã giành được [[Quả bóng vàng châu Âu|Quả bóng vàng]] lần đầu tiên. Ba mùa giải thành công sau đó, với việc Messi giành được bốn Quả bóng vàng liên tiếp, anh trở thành cầu thủ đầu tiên giành được giải thưởng này bốn lần liên tiếp.<ref name=":2">{{chú thích web|title=Messi makes it four FIFA Ballon d'Or wins in a row {{!}} Inside UEFA|url=https://www.uefa.com/memberassociations/news/newsid=1910623.html|last=UEFA.com|website=UEFA.com|access-date=ngày 16 tháng 5 năm 2020}}</ref> Trong [[FC Barcelona mùa giải 2011-12|mùa giải 2011–12]], anh lập kỷ lục tại La Liga và châu Âu về số bàn thắng ghi được nhiều nhất trong một mùa giải, đồng thời khẳng định mình là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại của Barcelona. Hai mùa giải tiếp theo, Messi về nhì tại Quả bóng vàng sau [[Cristiano Ronaldo]] ([[Cạnh tranh giữa Messi-Ronaldo|đối thủ lớn nhất trong sự nghiệp]] của anh), trước khi lấy lại phong độ tốt nhất của mình trong mùa giải 2014–15, trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại ở La Liga và cùng Barcelona giành cú ăn ba lịch sử lần thứ hai, sau đó anh giành Quả bóng vàng thứ năm vào năm 2015. Messi đảm nhận tấm băng đội trưởng của Barcelona vào năm 2018 và vào năm 2019, anh đã giành được [[Quả bóng vàng châu Âu 2019|Quả bóng vàng thứ sáu]]. Anh ký hợp đồng với Paris Saint-Germain vào tháng 8 năm 2021.
 
Trong màu áo Argentina, Messi là [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina#Các cầu thủ ra sân nhiều nhất|cầu thủ ra sân nhiều nhất]] và cũng là [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina#Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất|cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại]] của đất nước quê hương anh. Ở cấp độ trẻ, anh đã giành chức vô địch giải bóng đá trẻ thế giới năm 2005, kết thúc giải đấu với [[Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới#Giải thưởng|Quả bóng vàng và Chiếc giày vàng]], giành tấm huy chương vàng Olympic tại [[Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2008|Thế vận hội Mùa hè 2008]]. Phong cách [[rê bóng]] bằng chân trái của anh được so sánh với [[Diego Maradona]], người đã mô tả Messi là [[Maradona mới|truyền nhân]] của ông. Sau trận ra mắt đội tuyển vào tháng 8 năm 2005, Messi trở thành cầu thủ Argentina trẻ nhất thi đấu và ghi bàn tại [[FIFA World Cup]] vào năm [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2006|2006]] và lọt vào trận chung kết [[Copa América 2007]], nơi anh được vinh danh là cầu thủ trẻ xuất sắc nhất. Với tư cách là đội trưởng của đội tuyển từ tháng 8 năm 2011, anh đã dẫn dắt Argentina đến ba trận chung kết liên tiếp: [[FIFA World Cup 2014]], nơi anh giành [[Quả bóng vàng FIFA 2014|Quả bóng vàng]], [[Copa América 2015]] và [[Copa América Centenario|2016]]. Sau khi tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế vào năm 2016, anh đã thay đổi quyết định và đưa đất nước của mình giành quyền tham dự [[FIFA World Cup 2018]], về đích ở vị trí thứ ba tại [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2019|Copa América 2019]] và giành chức vô địch [[Copa América 2021]], giải đấu mà anh giành giải [[Copa América 2021#Giải thưởng|Quả bóng vàng]] và [[Copa América 2021#Giải thưởng|Chiếc giày vàng]]. Thành tích này giúp anh nhận được [[Quả bóng vàng châu Âu 2021|Quả bóng vàng thứ bảy]] kỷ lục vào năm 2021. Năm 2022, Messi đã dẫn dắt đội tuyển quốc gia của mình lên ngôi vô địch [[FIFA World Cup 2022]], giải đấu mà anh giành được Quả bóng vàng lần thứ hai kỷ lục và với 26 trận ra sân tại cúp bóng đá thế giới, anh trở thành [[Danh sách cầu thủ góp mặt ở nhiều kỳ FIFA World Cup nhất|cầu thủ ra sân nhiều trận nhất ở vòng chung kết World Cup]].
Dòng 83:
 
== Thiếu thời ==
Messi sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987 tại [[Rosario]], [[Santa Fe]], là con thứ ba trong số 4 người con của Jorge Messi, giám đốc nhà máy thép và Celia Cuccittini, công nhân làm việc trong xưởng sản xuất nam châm. Bên nội của Messi là người [[Người Argentina gốc Ý|gốc Ý]] và [[Người Argentina gốc Tây Ban Nha|Tây Ban Nha]], anh là chắt của những người nhập cư từ vùng [[Biển Adriatic|Adriatic]] [[Marche]] miền bắc nước [[Ý]] và [[Catalonia]], còn bên ngoại của anh có tổ tiên chủ yếu là người Ý.{{sfn|Balagué|2013|pp=32–37}}<ref name=":3">{{Citation|title=Lionel Messi rare interview (17 years old)|url=https://www.youtube.com/watch?v=_OkPFgFbCO0|access-date=ngày 6 tháng 3 năm 2020}}</ref> "Leo" lớn lên trong một gia đình đầm ấm và mê bóng đá, nên từ nhỏ anh đã say mê môn thể thao này; thường xuyên chơi bóng với hai người anh ruột là Rodrigo và Matías cũng như những người anh em họ là [[Maxi Biancucchi|Maximiliano]] và [[Emanuel Biancucchi]], cả hai sau này đều trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp.{{sfn|Caioli|2012|pp=9–10}} Lúc 4 tuổi, anh gia nhập câu lạc bộ địa phương Grandoli, tại đây anh được huấn luyện bởi cha mình, nhưng người sớm có ảnh hưởng đến tư cách một cầu thủ của Messi lại là bà ngoại của anh, Celia, người đã cùng anh tập luyện và thi đấu.<ref name="Magic in His Feet">{{chú thích báo |first=John |last=Carlin |title=Lionel Messi: Magic in His Feet |newspaper=The Independent |date=ngày 27 tháng 3 năm 2010 |url=https://www.independent.co.uk/news/people/profiles/lionel-messi-magic-in-his-feet-1928768.html |access-date=ngày 18 tháng 7 năm 2015}}</ref> Anh bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cái chết của bà, ngay trước sinh nhật tuổi 11; kể từ đó, là một [[người Công giáo]] sùng đạo, anh thường ăn mừng bàn thắng của mình bằng việc nhìn và chỉ tay lên trời nhằm tưởng nhớ bà.{{sfn|Balagué|2013|pp=44–45}}<ref>{{chú thích báo |first=Chris |last=Maume |title=Lionel Messi: The World at His Feet |newspaper=The Independent |date=ngày 11 tháng 7 năm 2014 |url=https://www.independent.co.uk/news/people/profiles/lionel-messi-the-world-at-his-feet-9601215.html |access-date=ngày 18 tháng 7 năm 2015}}</ref>
 
{{quote box|width=25%|align=right|quote="Khi nhìn thấy Messi, bạn sẽ nghĩ: đứa trẻ này không thể chơi bóng. Cậu ấy lùn tịt, quá gầy gò, quá nhỏ bé. Nhưng ngay lập tức, bạn nhận ra rằng cậu ấy có những tố chất bẩm sinh khác biệt, vô cùng đặc biệt và cậu bé đó chắc chắn sẽ tạo nên những điều ấn tượng"|source=–Huấn luyện viên đội trẻ của [[Newell's Old Boys]], [[Adrián Coria]] chia sẻ ấn tượng đầu tiên của ông về cậu bé 12 tuổi Messi.{{sfn|Caioli|2012|p=38}}}}
Dòng 325:
Sau màn trình diễn không thành công của Argentina tại Copa América, Batista được thay thế bởi [[Alejandro Sabella]]. Khi được bổ nhiệm vào tháng 8 năm 2011, Sabella đã trao tấm băng đội trưởng cho Messi, được sự chấp nhận của đội trưởng [[Javier Mascherano]] khi đó. Messi tiếp tục dẫn dắt Argentina với tư cách là cầu thủ xuất sắc nhất của họ, trong khi Mascherano tiếp tục hoàn thành vai trò người dẫn dắt và động lực của đội.{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}}<ref>{{chú thích báo |first=Rob |last=Hughes |title=If Messi Is Argentina's Star, Then Mascherano Is the Glue |newspaper=The New York Times |date=10 July 2014 |url=https://www.nytimes.com/2014/07/11/sports/soccer/if-messi-is-argentinas-star-then-mascherano-is-the-glue.html |access-date=13 August 2015}}</ref> Trong một cuộc tái thiết đội bóng, Sabella đã gạt bỏ Tevez và đưa về những cầu thủ cùng Messi giành chức vô địch Giải trẻ thế giới và Thế vận hội. Đang chơi ở một vai trò tự do trong một đội hình đang ngày một tiến bộ, Messi đã chấm dứt cơn khát bàn thắng của mình bằng việc ghi bàn trong trận đấu vòng loại World Cup đầu tiên của Argentina với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Chile|Chile]] vào ngày 7 tháng 10, bàn thắng chính thức đầu tiên của anh cho Argentina sau hai năm rưỡi.<ref name="Century of International Appearances" />{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}}
 
Dưới thời Sabella, tỷ lệ ghi bàn của Messi tăng lên đáng kể; anh chỉ ghi được 17 bàn sau 61 trận đấu dưới thời các huấn luyện viên tiền nhiệm, anh đã ghi 25 bàn sau 32 lần ra sân trong ba năm sau đó.<ref name="Century of International Appearances" />{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}} Anh đã ghi tổng cộng 12 bàn sau 9 trận cho Argentina vào năm 2012, cân bằng kỷ lục do [[Gabriel Batistuta]] nắm giữ về số bàn thắng nhiều nhất trong một năm cho đất nước mình.<ref name="Lionel Messi's Incredible Record-Breaking Year in Numbers">{{chú thích báo |first=Mike |last=Adamson |title=Lionel Messi's Incredible Record-Breaking Year in Numbers |newspaper=The Guardian |date=ngày 10 tháng 12 năm 2012 |url=https://www.theguardian.com/football/blog/2012/dec/10/lionel-messi-record-year-numbers |access-date=13 August 2015}}</ref> Hat-trick đầu tiên của anh với ''Albicelestes'' là trong trận giao hữu với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ|Thụy Sĩ]] vào ngày 29 tháng 2 năm 2012, sau đó là hai hat-trick nữa trong một năm rưỡi tiếp theo tại những trận giao hữu với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil|Brazil]] và [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Guatemala|Guatemala]]. Messi sau đó đã giúp đội tuyển đảm bảo tấm vé góp mặt tại [[World Cup 2014]] với chiến thắng 5–2 trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Paraguay|Paraguay]] vào ngày 10 tháng 9 năm 2013 khi anh ghi hai bàn từ các quả phạt đền, nâng tổng số bàn thắng quốc tế của anh lên 37 bàn trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng thứ hai cho Argentina sau Batistuta. Anh đã ghi tổng cộng 10 bàn thắng sau 14 trận đấu trong suốt chiến dịch vòng loại.<ref name="Century of International Appearances" /><ref>{{cite magazine |title=FIFA World Cup Qualifying: Paraguay 2 Argentina 5 |magazine=FourFourTwo |date=11 September 2013 |url=http://www.fourfourtwo.com/news/fifa-world-cup-qualifying-paraguay-2-argentina-5 |access-date=13 August 2015}}</ref> Cùng với màn trình diễn tốt của Messi, mối quan hệ giữa anh với những cầu thủ đồng hương được cải thiện, anh dần nhận được cái nhìn thiện cảm hơn ở Argentina.{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}}
 
nhận được cái nhìn thiện cảm hơn ở Argentina.{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}}
 
=== 2014–2015: Chung kết World Cup và Copa América ===
[[Tập tin:Iran vs. Argentina match, 2014 FIFA World Cup 37.jpg|thumb|left|Messi nhìn bóng bay vào lưới [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Iran|Iran]] sau cú cứa lòng 25 mét của mình trong trận đấu thứ hai vòng bảng [[FIFA World Cup 2014]]]]
 
Trước thềm World Cup ở Brazil, những nghi ngờ về phong độ của Messi liên tiếp xuất hiện, khi anh kết thúc một mùa giải không thành công với Barcelona và dính chấn thương. Tuy nhiên, khi vào giải, anh đã có những màn trình diễn đầy thuyết phục, được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong bốn trận đấu đầu tiên của Argentina.<ref name="2014 FIFA World Cup Brazil Technical Report and StatisticsTechnicalReport">{{chú thíchcite web |title=2014 FIFA World Cup Brazil Technical Report and Statistics |publisher=FIFA |pages=170–171 |url=http://resources.fifa.com/mm/document/footballdevelopment/technicalsupport/02/42/15/40/2014fwc_tsg_report_15082014web_neutral.pdf |access-date=14 August 2015 |archive-date=7 July 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20150707023419/http://resources.fifa.com/mm/document/footballdevelopment/technicalsupport/02/42/15/40/2014fwc_tsg_report_15082014web_neutral.pdf |url-status=dead }}</ref> Trong trận đấu đầu tiên ở World Cup với tư cách đội trưởng, anh đã dẫn dắt đội giành chiến thắng 2–1 trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Bosnia và Herzegovina|Bosnia và Herzegovina]]; anh khiến [[Sead Kolašinac]] đá [[phản lưới nhà]] và ghi bàn thắng thứ hai sau khi lừa bóng qua ba cầu thủ, bàn thắng đầu tiên của anh tại World Cup kể từ khi ra mắt giải đấu này tám năm trước.<ref>{{chú thích báo |first=Mandeep |last=Sanghera |title=Argentina 2–1 Bos-Herce |work=BBC Sport |date=ngày 15 tháng 6 năm 2014 |url=https://www.bbc.com/sport/0/football/25285099 |access-date=14 August 2015}}</ref> Trong trận đấu thứ hai với Iran, anh ghi một bàn thắng ở phút bù giờ từ khoảng cách 25m để mang về chiến thắng 1–0, chắc suất vào vòng loại trực tiếp.<ref>{{chú thích báo |first=Rob |last=Smyth |title=Argentina v Iran, World Cup 2014: Live |newspaper=The Daily Telegraph |date=21 June 2014 |url=https://www.telegraph.co.uk/sport/football/world-cup/10916423/Argentina-vs-Iran-World-Cup-2014-live.html |access-date=14 August 2015}}</ref> Anh ghi hai bàn trong trận đấu cuối cùng ở vòng bảng, chiến thắng 3–2 trước Nigeria, bàn thắng thứ hai của anh là từ một quả đá phạt, giúp họ đứng đầu bảng đấu của mình.<ref>{{chú thích báo |first=Saj |last=Chowdhury |title=Nigeria 2–3 Argentina |work=BBC Sport |date=ngày 25 tháng 6 năm 2014 |url=https://www.bbc.com/sport/0/football/25285406 |access-date=14 August 2015}}</ref> Messi đã kiến tạo bàn thắng muộn trong hiệp phụ mang về chiến thắng 1–0 trước Thụy Sĩ ở vòng 16, trước khi ghi bàn thắng ấn định tỷ số 1–0 trong trận tứ kết với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ|Bỉ]], giúp Argentina tiến đến bán kết World Cup lần đầu tiên kể từ năm [[World Cup 1990|1990]].<ref>{{chú thích báo |first=Jonathan |last=Jurejko |title=Argentina 1–0 Switzerland |work=BBC Sport |date=1 July 2014 |url=https://www.bbc.com/sport/0/football/27990606 |access-date=14 August 2015}}</ref><ref>{{chú thích web |first=Ken |last=Ferris |title=Argentina Beat Belgium to Reach First Semi since 1990 |work=Reuters |date=5 July 2014 |url=http://in.reuters.com/article/2014/07/05/soccer-world-m60-arg-bel-idINKBN0FA0PA20140705 |access-date=14 August 2015 |archive-date = ngày 12 tháng 1 năm 2016 |archive-url=https://archive.today/20160112230001/http://in.reuters.com/article/2014/07/05/soccer-world-m60-arg-bel-idINKBN0FA0PA20140705 |url-status=dead }}</ref> Sau trận hòa 0–0 trong hiệp phụ, họ loại Hà Lan 4–2 trong loạt sút luân lưu để vào chung kết, Messi thực hiện thành công quả đá đầu tiên cho Argentina.<ref>{{chú thích báo |first=Phil |last=McNulty |title=Netherlands 0–0 Argentina |work=BBC Sport |date=9 July 2014 |url=https://www.bbc.com/sport/0/football/28122293 |access-date=14 August 2015}}</ref>
 
[[Tập tin:Messi in Germany and Argentina face off in the final of the World Cup 2014 -2014-07-13 (24).jpg|thumb|upright|right|Messi (trái) đối đầu với [[Mats Hummels]] của Đức trong trận [[Chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 2014|chung kết FIFA World Cup 2014]]]]
 
Được quảng bá là trận đấu giữa Messi với Đức, giữa cầu thủ xuất sắc nhất với đội tuyển xuất sắc nhất, trận chung kết là sự tái hiện lại [[Chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 1990|trận chung kết năm 1990]] với sự góp mặt của Diego Maradona.<ref>{{chú thích báo |first=Matthew |last=Futterman |title=The World Cup Final: The Best Team vs. the Best Player |work=The Wall Street Journal |date=ngày 11 tháng 7 năm 2014 |url=https://www.wsj.com/articles/the-world-cup-final-the-best-team-vs-the-best-player-1405115575 |access-date=14 August 2015}}</ref> Trong nửa giờ đầu tiên, Messi đã kiến tạo cơ hội dẫn đến bàn thắng, nhưng nó rơi vào thế việt vị. Anh bỏ lỡ một số cơ hội để mở tỷ số trong suốt trận đấu, đặc biệt là vào đầu hiệp hai khi nỗ lực đột phá của anh đã đi bóng chệch cột dọc. Cầu thủ vào sân thay người [[Mario Götze]] ghi bàn ở phút 113, giúp Đức giành chiến thắng với tỷ số 1–0 để lên ngôi World Cup.<ref>{{chú thích báo |first=Scott |last=Murray |title=World Cup Final 2014: Germany v Argentina – as It Happened |newspaper=The Guardian |date=13 July 2014 |url=https://www.theguardian.com/football/2014/jul/13/world-cup-final-2014-germany-v-argentina-live-report |access-date=14 August 2015}}</ref> Kết thúc trận chung kết, Messi nhận [[Các giải thưởng của Giải vô địch bóng đá thế giới#Quả bóng Vàng|Quả bóng vàng]] với tư cách là cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Ngoài là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ ba, với bốn bàn thắng và một pha kiến tạo, anh còn tạo ra nhiều cơ hội nhất, nhiều pha rê bóng nhất, thực hiện nhiều đường chuyền trong vòng cấm nhất và nhiều pha chọn khe nhất giải đấu.<ref name="TechnicalReport2" /><ref>{{chú thích web|url=http://www.skysports.com/football/news/15241/9381511/world-cup-final-was-lionel-messi-really-a-disappointment-in-brazil-or-have-we-just-become-numb-to-his-genius|title=World Cup Final: Was Lionel Messi Really a Disappointment in Brazil or Have We Just Become Numb to His Genius?|last=Bate|first=Adam|date=16 July 2014|work=Sky Sports|access-date=14 August 2015}}</ref> Tuy nhiên, việc trao danh hiệu này cho Messi đã nhận về nhiều lời chỉ trích do anh không có bàn thắng nào ở vòng loại trực tiếp; Chủ tịch FIFA [[Sepp Blatter]] bày tỏ sự ngạc nhiên, trong khi Maradona cho rằng Messi được chọn vì mục đích tiếp thị là không xứng đáng.<ref>{{chú thích báo |title=World Cup 2014: Lionel Messi Golden Ball Surprised Sepp Blatter |work=BBC Sport |date=14 July 2014 |url=https://www.bbc.com/sport/0/football/28294339 |access-date=14 August 2014}}</ref>
 
Tuy nhiên, Messi đã bị chỉ trích do không có bàn thắng nào ở vòng loại trực tiếp; Chủ tịch FIFA [[Sepp Blatter]] bày tỏ sự ngạc nhiên, trong khi Maradona cho rằng Messi đã được chọnlựa cho mục đích thương mại hóa.<ref>{{chú thích báo |title=World Cup 2014: Lionel Messi Golden Ball Surprised Sepp Blatter |work=BBC Sport |date=14 July 2014 |url=https://www.bbc.com/sport/0/football/28294339 |access-date=14 August 2014}}</ref>
 
Một lần khác góp mặt tại trận chung kết khác, lần thứ ba trong sự nghiệp quốc tế của Messi, [[Copa América 2015]], được tổ chức tại [[Chile]]. Dưới sự chỉ đạo của cựu huấn luyện viên Barcelona [[Gerardo Martino]], Argentina bước vào giải đấu với tư cách là ứng cử viên vô địch do thành tích về nhì tại World Cup.<ref>{{chú thích web |title=Gerardo 'Tata' Martino Appointed Argentina Coach |publisher=CNN |date=13 August 2014 |url=http://edition.cnn.com/2014/08/13/sport/football/gerardo-tata-martino-argentina-football/ |access-date=14 August 2015}}</ref><ref>{{chú thích web |first1=Rex |last1=Gowar |first2=Santiago |last2=Torres |first3=Justin |last3=Palmer |title=Messi Bemoans Scoring Difficulties at Copa América |work=Reuters |date=29 June 2015 |url=https://www.reuters.com/article/2015/06/29/us-soccer-copa-argentina-idUSKCN0P91I820150629 |access-date=14 August 2015 |archive-date = ngày 2 tháng 7 năm 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20150702070537/https://www.reuters.com/article/2015/06/29/us-soccer-copa-argentina-idUSKCN0P91I820150629 }}</ref> Trong trận đấu mở màn với Paraguay, họ dẫn trước hai bàn sau hiệp một nhưng để thua và kết thúc trận đấu với tỷ số hòa 2–2; Messi đã ghi bàn từ một quả đá phạt đền, đây là bàn thắng duy nhất của anh tại giải đấu.<ref>{{chú thích báo |title=Argentina 2–2 Paraguay |work=BBC Sport |date=13 June 2015 |url=https://www.bbc.com/sport/0/football/33081605 |access-date=14 August 2015}}</ref> Sau chiến thắng 1–0 trước đương kim vô địch Uruguay, Messi có lần khoác áo thứ 100 cho đất nước mình trong trận đấu cuối cùng vòng bảng, chiến thắng 1–0 trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Jamaica|Jamaica]], trở thành cầu thủ Argentina thứ năm đạt được cột mốc này.<ref name="Messi Wins 100th Argentina Cap">{{chú thích web |first1=Gideon |last1=Long |first2=Tony |last2=Jimenez |title=Messi Wins 100th Argentina Cap |work=Reuters |date=21 June 2015 |url=http://in.reuters.com/article/2015/06/21/soccer-copa-messi-idINKBN0P106720150621 |access-date=14 August 2015 |archive-date = ngày 19 tháng 5 năm 2019 |archive-url=https://www.webcitation.org/78UAd3QIS?url=https://in.reuters.com/article/soccer-copa-messi/messi-wins-100th-argentina-cap-idINKBN0P106720150621 |url-status=dead }}</ref> Trong 100 lần ra sân, anh đã ghi được tổng cộng 46 bàn thắng cho Argentina, 22 trong số đó là các trận đấu chính thức.<ref name="Century of International Appearances" /><ref name="Messi Wins 100th Argentina Cap" />
 
Khi Messi từ đội trưởng biểu tượng của Argentina thành một người lãnh đạo thực sự, anh đã dẫn dắt đội tuyển tiến vào vòng loại trực tiếp với tư cách đội đứng đầu bảng.<ref name="Even Hostile Chile Fans Forced to Acknowledge Lionel Messi's Greatness">{{chú thích báo |first=Jonathan |last=Wilson |title=Even Hostile Chile Fans Forced to Acknowledge Lionel Messi's Greatness |newspaper=The Guardian |date=1 July 2015 |url=https://www.theguardian.com/football/2015/jul/01/lionel-messi-copa-america-argetina-greatness |access-date=14 August 2015}}</ref> Trong trận tứ kết, họ đã tạo ra rất nhiều cơ hội, bao gồm cả cú đánh đầu dội cột của Messi, nhưng liên tục bị thủ môn [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia|Colombia]] cản phá, cuối cùng kết thúc thời gian thi đấu chính thức mà vẫn bất phân thắng bại, dẫn đến chiến thắng trên loạt sút luân lưu 5–4 của Argentina, Messi thực hiện thành công quả đá đầu tiên.<ref>{{chú thích web |title=Argentina Beat Colombia on Penalties to Reach Copa America Semifinal |publisher=ESPN FC |date=ngày 26 tháng 6 năm 2015 |url=http://www.espnfc.com/copa-america/match/424362/argentina-colombia/report |access-date=14 August 2015}}</ref> Ở bán kết, Messi kiến tạo ba bàn trong chiến thắng 6–1 của Argentina trước Paraguay, nhận được tràng pháo tay từ đối thủ.<ref name="Even Hostile Chile Fans Forced to Acknowledge Lionel Messi's Greatness" /> Argentina bắt đầu trận [[Chung kết Cúp bóng đá Nam Mỹ 2015|chung kết]] với tư cách là ứng cử viên vô địch, nhưng đã bị Chile đánh bại 4–1 trong loạt sút luân lưu sau khi hòa 0–0 trong hiệp phụ. Đối mặt với sự công kích từ các cầu thủ đối phương, Messi đã chơi dưới sức, mặc dù anh là cầu thủ Argentina duy nhất thực hiện thành công quả phạt đền của mình.<ref>{{chú thích báo |first=Jonathan |last=Wilson |title=Hosts Chile Stun Argentina to Claim First Copa América Title on Penalties |newspaper=The Guardian |date=5 July 2015 |url=https://www.theguardian.com/football/2015/jul/05/chile-argentina-copa-america-final-match-report |access-date=14 August 2015}}</ref> Cuối giải đấu, anh được nhận giải thưởng [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2015#Giải thưởng|Cầu thủ xuất sắc nhất]] nhưng đã từ chối danh hiệu.<ref name="Argentina's Lionel Messi Grateful for Support after Copa América Defeat">{{chú thích web |first=Adriana |last=Garcia |title=Argentina's Lionel Messi Grateful for Support after Copa América Defeat |publisher=ESPN FC |date=7 July 2015 |url=http://www.espnfc.com/copa-america/story/2514749/lionel-messi-grateful-for-support-after-copa-america-defeat |access-date=14 August 2015}}</ref> Argentina tiếp tục cơn khát danh hiệu bắt đầu từ năm 1993, thất bại tại World Cup và Copa América một lần nữa dẫn đến những lời chỉ trích cay nghiệt dành cho Messi từ giới truyền thông và người hâm mộ Argentina.<ref>{{chú thích báo |first=Ken |last=Ferris |title=Coach: I'd Have Stopped Playing for Argentina if I Was Messi |newspaper=The New York Times |date=5 August 2015 |url=https://www.nytimes.com/reuters/2015/08/05/sports/soccer/05reuters-soccer-argentina-messi.html?ref=topics |access-date=14 August 2015 }}{{Liên kết hỏng|date = ngày 19 tháng 8 năm 2021 |bot=InternetArchiveBot }}</ref>
Hàng 723 ⟶ 719:
'''Argentina'''
* [[FIFA World Cup]]: [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2022|2022]]
* [[Cúp bóng đá Nam Mỹ|Copa América]]: [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2021|2021]]; Á quân: [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2007|2007]], [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2015|2015]], [[Cúp bóng đá toàn châu Mỹ 2016|2016]]
* [[Siêu cúp Liên lục địa CONMEBOL–UEFA|CONMEBOL–UEFA Cup of Champions]]: [[Finalissima 2022|2022]]