Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lionel Messi”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Task 3: Sửa lỗi chung (GeneralFixes1) (#TASK3QUEUE) |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 74:
{{Loạt bài về Lionel Messi}}
'''Lionel Andrés Messi'''{{refn|group=ghi chú|Theo trang web FCBarcelona.com và cuốn tiểu sử ''Messi'' do nhà báo [[Guillem Balagué]] chấp bút, họ của anh là "Messi", dựa theo phong tục đặt tên của người Argentina.<ref name="BarcaProfile">{{Chú thích web |title=Profile: Lionel Andrés Messi |publisher=FC Barcelona |url=http://www.fcbarcelona.com/football/first-team/staff/players/messi |access-date=8 September 2015}}</ref>{{sfn|Balagué|2013|pp=32–37}} Nhiều nguồn khác, bao gồm một tài liệu năm 2014 của [[FIFA]], lại cho rằng họ của anh là "Messi Cuccittini".<ref>{{Chú thích web |title=2014 FIFA World Cup Brazil: List of Players |publisher=FIFA |date=10 June 2014 |page=2 |url=http://resources.fifa.com/mm/document/tournament/competition/02/36/33/44/fwc_2014_squadlists_neutral.pdf |archive-url=https://web.archive.org/web/20140625085714/http://resources.fifa.com/mm/document/tournament/competition/02/36/33/44/fwc_2014_squadlists_neutral.pdf |url-status=dead |archive-date=25 June 2014 |access-date=8 September 2015}}</ref> Sau khi thắng kiện vào năm 2017, công ty quản lý của Messi tuyên bố: "Cầu thủ bóng đá Lionel Andres Messi Cuccittini đã quyên góp tổng cộng 72.783,20 [[€]] cho tổ chức [[Bác sĩ không biên giới]]."<ref>{{chú thích báo |last=Marsden |first=Sam |url=http://www.espn.in/football/barcelona/story/3255615/lionel-messi-donates-70k-to-charity-after-winning-libel-case-against-newspaper |title=Messi donates to charity after libel case win |publisher=ESPN |date=2 November 2017|access-date=3 November 2017}}</ref>}} ({{IPA-es|ljoˈnel anˈdɾes ˈmesi|-|Lionel Andrés Messi - Name.ogg}}; sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987), còn được gọi là '''Leo Messi''', là một [[cầu thủ bóng đá]] chuyên nghiệp [[người Argentina]] hiện đang thi đấu ở vị trí [[Tiền đạo (bóng đá)|tiền đạo]] cho câu lạc bộ [[Ligue 1]] [[Paris Saint-Germain F.C.|Paris Saint-Germain]] và là [[Đội trưởng (bóng đá)|đội trưởng]] của [[đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina]]. Được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, Messi giữ kỷ lục 7 lần giành [[Quả bóng vàng châu Âu|Quả bóng vàng]],{{refn|group=ghi chú|Ngoài 4 [[Quả bóng vàng FIFA]], Messi còn nhận được cả [[Quả bóng vàng châu Âu]] của ''[[France Football]]'' và [[Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA|Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA]] vào cùng năm 2009 trước khi hai giải thưởng này được sáp nhập lại; cả hai giải đều ghi nhận anh là chủ nhân của 5 Quả bóng vàng (FIFA).<ref>{{cite magazine |first=Rémy |last=Lacombe |title=Messi, le Cinquième Élément |magazine=France Football |date=ngày 11 tháng 1 năm 2016 |url=http://www.francefootball.fr/news/messi-le-cinquieme-element/623615 |access-date=ngày 26 tháng 5 năm 2016}}</ref><ref>{{chú thích web |title=Messi, Lloyd, Luis Enrique and Ellis Triumph at FIFA Ballon d'Or 2015 |publisher=FIFA |date=ngày 11 tháng 1 năm 2016 |url=https://www.fifa.com/news/y=2016/m=1/news=messi-lloyd-luis-enrique-and-ellis-triumph-at-fifa-ballon-d-or-2015-2754944.html |access-date=ngày 26 tháng 5 năm 2016 |archive-date=2018-09-15 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180915085710/https://www.fifa.com/news/y=2016/m=1/news=messi-lloyd-luis-enrique-and-ellis-triumph-at-fifa-ballon-d-or-2015-2754944.html |url-status=dead }}</ref> Vào năm 2019, anh lần thứ sáu nhận được [[Quả bóng vàng 2019|Quả bóng vàng]], đồng thời giành giải [[Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của FIFA]], trước khi nhận được [[Quả bóng vàng châu Âu 2021|Quả bóng vàng]] thứ bảy vào năm 2021.}} 6 lần giành [[Chiếc giày vàng châu Âu]] và vào năm 2020 được xếp vào [[:en:Ballon d'Or Dream Team#First Team|Ballon d'Or Dream Team]]. Trước khi rời câu lạc bộ vào năm 2021, anh đã cống hiến toàn bộ sự nghiệp của mình cho [[FC Barcelona|Barcelona]], tại đây anh đã giành được kỷ lục [[Thành tích và kỷ lục của câu lạc bộ Barcelona|35 danh hiệu cấp câu lạc bộ]], bao gồm 10 [[La Liga]], 7 [[Copa del Rey]] và 4 [[UEFA Champions League]]. Với đất nước của mình, anh đã giành được danh hiệu [[Copa América 2021]] và [[FIFA World Cup 2022]]. Là một tay săn bàn lão luyện và cầu thủ kiến thiết xuất sắc, Messi đang nắm giữ kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất ở La Liga (474
Sinh ra và lớn lên ở miền trung Argentina, Messi chuyển đến [[Tây Ban Nha]] và gia nhập Barcelona ở tuổi 13, anh đã có trận ra mắt đội một câu lạc bộ ở tuổi 17 vào ngày 16 tháng 10 năm 2004, khi được [[Frank Rijkaard]] tung vào sân. Anh dần là cầu thủ chủ chốt của câu lạc bộ trong ba năm tiếp theo. Trong [[FC Barcelona mùa giải 2008-09|mùa giải đầu tiên]] không bị gián đoạn bởi chấn thương, anh đã giúp Barcelona đạt được [[cú ăn ba (bóng đá)|cú ăn ba]] đầu tiên của bóng đá Tây Ban Nha; vào năm đó, ở tuổi 22, Messi đã giành được [[Quả bóng vàng châu Âu|Quả bóng vàng]] lần đầu tiên. Ba mùa giải thành công sau đó, với việc Messi giành được bốn Quả bóng vàng liên tiếp, anh trở thành cầu thủ đầu tiên giành được giải thưởng này bốn lần liên tiếp.
Trong màu áo Argentina, Messi là [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina#Các cầu thủ ra sân nhiều nhất|cầu thủ ra sân nhiều nhất]] và cũng là [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina#Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất|cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại]] của đất nước quê hương anh. Ở cấp độ trẻ, anh đã giành chức vô địch giải bóng đá trẻ thế giới năm 2005, kết thúc giải đấu với [[Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới#Giải thưởng|Quả bóng vàng và Chiếc giày vàng]], giành tấm huy chương vàng Olympic tại [[Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2008|Thế vận hội Mùa hè 2008]]. Phong cách [[rê bóng]] bằng chân trái của anh được so sánh với [[Diego Maradona]], người đã mô tả Messi là [[Maradona mới|truyền nhân]] của ông. Sau trận ra mắt đội tuyển vào tháng 8 năm 2005, Messi trở thành cầu thủ Argentina trẻ nhất thi đấu và ghi bàn tại [[FIFA World Cup]] vào năm [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2006|2006]] và lọt vào trận chung kết [[Copa América 2007]], nơi anh được vinh danh là cầu thủ trẻ xuất sắc nhất. Với tư cách là đội trưởng của đội tuyển từ tháng 8 năm 2011, anh đã dẫn dắt Argentina đến ba trận chung kết liên tiếp: [[FIFA World Cup 2014]], nơi anh giành [[Quả bóng vàng FIFA 2014|Quả bóng vàng]], [[Copa América 2015]] và [[Copa América Centenario|2016]]. Sau khi tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế vào năm 2016, anh đã thay đổi quyết định và đưa đất nước của mình giành quyền tham dự [[FIFA World Cup 2018]], về đích ở vị trí thứ ba tại [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2019|Copa América 2019]] và giành chức vô địch [[Copa América 2021]], giải đấu mà anh giành giải [[Copa América 2021#Giải thưởng|Quả bóng vàng]] và [[Copa América 2021#Giải thưởng|Chiếc giày vàng]]. Thành tích này giúp anh nhận được [[Quả bóng vàng châu Âu 2021|Quả bóng vàng thứ bảy]] kỷ lục vào năm 2021. Năm 2022, Messi đã dẫn dắt đội tuyển quốc gia của mình lên ngôi vô địch [[FIFA World Cup 2022]], giải đấu mà anh giành được Quả bóng vàng lần thứ hai kỷ lục và với 26 trận ra sân tại cúp bóng đá thế giới, anh trở thành [[Danh sách cầu thủ góp mặt ở nhiều kỳ FIFA World Cup nhất|cầu thủ ra sân nhiều trận nhất ở vòng chung kết World Cup]].
Dòng 83:
== Thiếu thời ==
Messi sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987 tại [[Rosario]], [[Santa Fe]], là con thứ ba trong số 4 người con của Jorge Messi, giám đốc nhà máy thép và Celia Cuccittini, công nhân làm việc trong xưởng sản xuất nam châm. Bên nội của Messi là người [[Người Argentina gốc Ý|gốc Ý]] và [[Người Argentina gốc Tây Ban Nha|Tây Ban Nha]],
{{quote box|width=25%|align=right|quote="Khi nhìn thấy Messi, bạn sẽ nghĩ: đứa trẻ này không thể chơi bóng. Cậu ấy lùn tịt, quá gầy gò, quá nhỏ bé. Nhưng ngay lập tức, bạn nhận ra rằng cậu ấy có những tố chất bẩm sinh khác biệt, vô cùng đặc biệt và cậu bé đó chắc chắn sẽ tạo nên những điều ấn tượng"|source=–Huấn luyện viên đội trẻ của [[Newell's Old Boys]], [[Adrián Coria]] chia sẻ ấn tượng đầu tiên của ông về cậu bé 12 tuổi Messi.{{sfn|Caioli|2012|p=38}}}}
Dòng 325:
Sau màn trình diễn không thành công của Argentina tại Copa América, Batista được thay thế bởi [[Alejandro Sabella]]. Khi được bổ nhiệm vào tháng 8 năm 2011, Sabella đã trao tấm băng đội trưởng cho Messi, được sự chấp nhận của đội trưởng [[Javier Mascherano]] khi đó. Messi tiếp tục dẫn dắt Argentina với tư cách là cầu thủ xuất sắc nhất của họ, trong khi Mascherano tiếp tục hoàn thành vai trò người dẫn dắt và động lực của đội.{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}}<ref>{{chú thích báo |first=Rob |last=Hughes |title=If Messi Is Argentina's Star, Then Mascherano Is the Glue |newspaper=The New York Times |date=10 July 2014 |url=https://www.nytimes.com/2014/07/11/sports/soccer/if-messi-is-argentinas-star-then-mascherano-is-the-glue.html |access-date=13 August 2015}}</ref> Trong một cuộc tái thiết đội bóng, Sabella đã gạt bỏ Tevez và đưa về những cầu thủ cùng Messi giành chức vô địch Giải trẻ thế giới và Thế vận hội. Đang chơi ở một vai trò tự do trong một đội hình đang ngày một tiến bộ, Messi đã chấm dứt cơn khát bàn thắng của mình bằng việc ghi bàn trong trận đấu vòng loại World Cup đầu tiên của Argentina với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Chile|Chile]] vào ngày 7 tháng 10, bàn thắng chính thức đầu tiên của anh cho Argentina sau hai năm rưỡi.<ref name="Century of International Appearances" />{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}}
Dưới thời Sabella, tỷ lệ ghi bàn của Messi tăng lên đáng kể; anh chỉ ghi được 17 bàn sau 61 trận đấu dưới thời các huấn luyện viên tiền nhiệm, anh đã ghi 25 bàn sau 32 lần ra sân trong ba năm sau đó.<ref name="Century of International Appearances" />{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}} Anh đã ghi tổng cộng 12 bàn sau 9 trận cho Argentina vào năm 2012, cân bằng kỷ lục do [[Gabriel Batistuta]] nắm giữ về số bàn thắng nhiều nhất trong một năm cho đất nước mình.<ref name="Lionel Messi's Incredible Record-Breaking Year in Numbers">{{chú thích báo |first=Mike |last=Adamson |title=Lionel Messi's Incredible Record-Breaking Year in Numbers |newspaper=The Guardian |date=ngày 10 tháng 12 năm 2012 |url=https://www.theguardian.com/football/blog/2012/dec/10/lionel-messi-record-year-numbers |access-date=13 August 2015}}</ref> Hat-trick đầu tiên của anh với ''Albicelestes'' là trong trận giao hữu với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ|Thụy Sĩ]] vào ngày 29 tháng 2 năm 2012, sau đó là hai hat-trick nữa trong một năm rưỡi tiếp theo tại những trận giao hữu với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Brazil|Brazil]] và [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Guatemala|Guatemala]]. Messi sau đó đã giúp đội tuyển đảm bảo tấm vé góp mặt tại [[World Cup 2014]] với chiến thắng 5–2 trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Paraguay|Paraguay]] vào ngày 10 tháng 9 năm 2013 khi anh ghi hai bàn từ các quả phạt đền, nâng tổng số bàn thắng quốc tế của anh lên 37 bàn trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng thứ hai cho Argentina sau Batistuta. Anh đã ghi tổng cộng 10 bàn thắng sau 14 trận đấu trong suốt chiến dịch vòng loại.<ref name="Century of International Appearances" /><ref>{{cite magazine |title=FIFA World Cup Qualifying: Paraguay 2 Argentina 5 |magazine=FourFourTwo |date=11 September 2013 |url=http://www.fourfourtwo.com/news/fifa-world-cup-qualifying-paraguay-2-argentina-5 |access-date=13 August 2015}}</ref> Cùng với màn trình diễn tốt của Messi, mối quan hệ giữa anh với những cầu thủ đồng hương được cải thiện, anh dần nhận được cái nhìn thiện cảm hơn ở Argentina.{{sfn|Balagué|2013|pp=595–602}}
=== 2014–2015: Chung kết World Cup và Copa América ===
[[Tập tin:Iran vs. Argentina match, 2014 FIFA World Cup 37.jpg|thumb|left|Messi nhìn bóng bay vào lưới [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Iran|Iran]] sau cú cứa lòng 25 mét của mình trong trận đấu thứ hai vòng bảng [[FIFA World Cup 2014]]]]
Trước thềm World Cup ở Brazil, những nghi ngờ về phong độ của Messi liên tiếp xuất hiện, khi anh kết thúc một mùa giải không thành công với Barcelona và dính chấn thương. Tuy nhiên, khi vào giải, anh đã có những màn trình diễn đầy thuyết phục, được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong bốn trận đấu đầu tiên của Argentina.<ref name="
[[Tập tin:Messi in Germany and Argentina face off in the final of the World Cup 2014 -2014-07-13 (24).jpg|thumb|upright|right|Messi (trái) đối đầu với [[Mats Hummels]] của Đức trong trận [[Chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 2014|chung kết FIFA World Cup 2014]]]]
Được quảng bá là trận đấu giữa Messi với Đức, giữa cầu thủ xuất sắc nhất với đội tuyển xuất sắc nhất,
Một lần khác góp mặt tại trận chung kết
Khi Messi từ đội trưởng biểu tượng của Argentina thành một người lãnh đạo thực sự, anh đã dẫn dắt đội tuyển tiến vào vòng loại trực tiếp với tư cách đội đứng đầu bảng.<ref name="Even Hostile Chile Fans Forced to Acknowledge Lionel Messi's Greatness">{{chú thích báo |first=Jonathan |last=Wilson |title=Even Hostile Chile Fans Forced to Acknowledge Lionel Messi's Greatness |newspaper=The Guardian |date=1 July 2015 |url=https://www.theguardian.com/football/2015/jul/01/lionel-messi-copa-america-argetina-greatness |access-date=14 August 2015}}</ref> Trong trận tứ kết, họ đã tạo ra rất nhiều cơ hội, bao gồm cả cú đánh đầu dội cột của Messi, nhưng liên tục bị thủ môn [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia|Colombia]] cản phá, cuối cùng kết thúc thời gian thi đấu chính thức mà vẫn bất phân thắng bại, dẫn đến chiến thắng trên loạt sút luân lưu 5–4 của Argentina, Messi thực hiện thành công quả đá đầu tiên.<ref>{{chú thích web |title=Argentina Beat Colombia on Penalties to Reach Copa America Semifinal |publisher=ESPN FC |date=ngày 26 tháng 6 năm 2015 |url=http://www.espnfc.com/copa-america/match/424362/argentina-colombia/report |access-date=14 August 2015}}</ref> Ở bán kết, Messi kiến tạo ba bàn trong chiến thắng 6–1 của Argentina trước Paraguay, nhận được tràng pháo tay từ đối thủ.<ref name="Even Hostile Chile Fans Forced to Acknowledge Lionel Messi's Greatness" /> Argentina bắt đầu trận [[Chung kết Cúp bóng đá Nam Mỹ 2015|chung kết]] với tư cách là ứng cử viên vô địch, nhưng đã bị Chile đánh bại 4–1 trong loạt sút luân lưu sau khi hòa 0–0 trong hiệp phụ. Đối mặt với sự công kích từ các cầu thủ đối phương, Messi đã chơi dưới sức, mặc dù anh là cầu thủ Argentina duy nhất thực hiện thành công quả phạt đền của mình.<ref>{{chú thích báo |first=Jonathan |last=Wilson |title=Hosts Chile Stun Argentina to Claim First Copa América Title on Penalties |newspaper=The Guardian |date=5 July 2015 |url=https://www.theguardian.com/football/2015/jul/05/chile-argentina-copa-america-final-match-report |access-date=14 August 2015}}</ref> Cuối giải đấu, anh được nhận giải thưởng [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2015#Giải thưởng|Cầu thủ xuất sắc nhất]] nhưng đã từ chối danh hiệu.<ref name="Argentina's Lionel Messi Grateful for Support after Copa América Defeat">{{chú thích web |first=Adriana |last=Garcia |title=Argentina's Lionel Messi Grateful for Support after Copa América Defeat |publisher=ESPN FC |date=7 July 2015 |url=http://www.espnfc.com/copa-america/story/2514749/lionel-messi-grateful-for-support-after-copa-america-defeat |access-date=14 August 2015}}</ref> Argentina tiếp tục cơn khát danh hiệu bắt đầu từ năm 1993, thất bại tại World Cup và Copa América một lần nữa dẫn đến những lời chỉ trích cay nghiệt dành cho Messi từ giới truyền thông và người hâm mộ Argentina.<ref>{{chú thích báo |first=Ken |last=Ferris |title=Coach: I'd Have Stopped Playing for Argentina if I Was Messi |newspaper=The New York Times |date=5 August 2015 |url=https://www.nytimes.com/reuters/2015/08/05/sports/soccer/05reuters-soccer-argentina-messi.html?ref=topics |access-date=14 August 2015 }}{{Liên kết hỏng|date = ngày 19 tháng 8 năm 2021 |bot=InternetArchiveBot }}</ref>
Hàng 723 ⟶ 719:
'''Argentina'''
* [[FIFA World Cup]]: [[Giải vô địch bóng đá thế giới 2022|2022]]
* [[Cúp bóng đá Nam Mỹ|Copa América]]: [[Cúp bóng đá Nam Mỹ 2021|2021
* [[Siêu cúp Liên lục địa CONMEBOL–UEFA|CONMEBOL–UEFA Cup of Champions]]: [[Finalissima 2022|2022]]
|