Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Nhân Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
n Hồi sửa về bản sửa đổi 70891919 của 101.99.33.161 (talk) |
||
Dòng 2:
| tên = Trần Nhân Tông
| tên gốc = 陳仁宗
| tước vị = [[Danh sách vua
| tước vị thêm =
| thêm = vietnam
| hình = Trần Nhân Tông.jpg
| ghi chú hình =
| chức vị = [[Nhà Trần|Hoàng đế Đại Việt]]
| tại vị = [[8 tháng 11]] năm [[1278]] – <br> [[16 tháng 4]] năm [[1293]]<br>({{số năm theo năm và ngày|1278|11|8|1293|4|16}})<timeline>
Dòng 53:
* Hiếu Hoàng (孝皇 [[1278]]-[[1293|93]])
* Pháp Thiên Ngự Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân Hoàng Đế (法天御極英烈武聖明仁皇帝 [[1278]]-[[1293|93]])
*
}}
| niên hiệu = {{plain list|
Dòng 76:
}}
<!-- {{Bài cùng tên}} -->
'''Trần Nhân Tông''' ([[chữ Hán]]: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là '''Trần Khâm''' (陳昑), tự là '''Thanh Phúc''', là vị [[vua Việt Nam
Là đích trưởng tử của [[Trần Thánh Tông]] Trần Hoảng (
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của [[người Mông Cổ]], Trần Nhân Tông
==Thân thế==
Trần Nhân Tông tên thật là '''Trần Khâm''' (陳昑), '''Trần Nhật Tuấn/Trần Nhật Tôn''' (陳日燇)<ref>{{Chú thích|title=陳仁宗|date=2021-05-27|url=https://zh.wikipedia.org/w/index.php?title=陳仁宗&oldid=65808342|work=維基百科,自由的百科全書|language=zh-Hant|access-date=2022-10-09}}</ref>, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm [[Mậu Ngọ]] niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức ngày [[7 tháng 12]] năm [[1258]]). Ông là đích trưởng tử của [[Trần Thánh Tông]] Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần) và [[Thiên Cảm hoàng hậu|Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu]] Trần Thị Thiều, cũng là đích trưởng tôn của [[Trần Thái Tông]] Trần Cảnh (vua đầu tiên triều Trần). Theo ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]'' (bộ quốc sử Đại Việt biên soạn năm 1479 thời [[Lê Thánh Tông]]), Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã ''được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng'', nên vua cha và ông nội – [[Thái thượng hoàng]] [[Trần Thái Tông]] đã gọi ông là ''Kim Tiên đồng tử'' (金仙童子).{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=185–186}} Các sách ''Tam Tổ thực lục'' và ''Thánh đăng ngữ lục'' (đều ra đời vào khoảng [[thế kỷ XIV]]) chép biệt hiệu này là ''Kim Phật'' (金佛).<ref name="thanhdangnguluan"/><ref name="tamto95"/> Cả hai sách này và ''Đại Việt Sử ký Toàn thư'' đều kể rằng bên vai trái Trần Khâm có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng tử về sau sẽ làm được việc lớn.<ref name="lemanhthat2"/>
Năm [[1274]], ở tuổi 16, Trần Khâm được vua cha sách phong làm [[Hoàng thái tử]]. Trần Thánh Tông cũng lập trưởng nữ của Hưng Đạo vương [[Trần Quốc Tuấn]] (tức [[Bảo Thánh hoàng hậu|Khâm Từ Hoàng hậu]] sau này) làm Thái tử phi. Trần Thánh Tông còn vời các nho sĩ có tài đức trong cả nước về hầu cận thái tử. Tướng [[Lê Phụ Trần]] được phong chức Thiếu sư, kiêm Trừ cung Giáo thụ, đảm trách việc dạy học thái tử. Bản thân nhà vua cũng viết thơ và sách ''Di hậu lục'' (2 quyển) giáo huấn cho thái tử.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=182}} Các chú giải của
Tuy ở ngôi [[thái tử]] và có [[hôn nhân]] hạnh phúc, Trần Khâm có chí hướng [[Tì-kheo|xuất gia]] theo Phật. Ông đã nhiều lần xin nhường ngôi Thái tử cho em là Tá Thiên vương Trần Đức Việp nhưng không được vua cha chấp thuận. Có lần, Trần Khâm nhân đêm khuya vượt thành đi vào [[núi Yên Tử]] ẩn tu, đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời sáng, ông đã thấm mệt nên vào nghỉ trong tháp. Vị [[tu sĩ]] ở [[chùa]] thấy ông có dung mạo phi thường bèn mời cơm. Sau [[Trần Thánh Tông]] và [[hoàng hậu]] biết tin, sai quan quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô; Trần Khâm bèn miễn cưỡng nhận ngôi thái tử.<ref name="thanhdangnguluan"/>
Dòng 99:
Đứng trước hiểm họa xâm lược từ Mông Cổ, Hoàng đế đã có nhiều nỗ lực nhằm [[phát triển kinh tế]], đảm bảo sự ổn định và đoàn kết trong nước.<ref name="lemanhthat2"/>{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=188–189}} Cụ thể, tháng 1 âm lịch năm [[1280]], ông ra lệnh hợp nhất hệ thống đo lường để thúc đẩy [[thương mại]] trên toàn quốc.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=185–186}}<ref name="lemanhthat2"/>{{sfn|Quốc sử quán triều Nguyễn|1998|pp=221–222}} Ngoài ra, ông khuyến khích nông dân tăng cường sản xuất, và nhờ vậy, Đại Việt đã ''"được mùa to, lúa ruộng ở hương Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò hai bông"'' (theo ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]'') vào tháng 10 âm lịch năm 1280.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=185–186}}<ref name="lemanhthat2"/>{{sfn|Quốc sử quán triều Nguyễn|1998|pp=221–222}} Mùa xuân năm 1284, Hoàng đế lại sai vét [[sông Tô Lịch]] nhằm biến sông này thành trục giao thông chính của kinh đô.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=188–189}}<ref>{{Chú thích web |url = http://www.nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/16079/language/vi-VN/Default.aspx |tiêu đề = Phường phố Thăng Long thời Trần |tác giả = Bách Nghệ (tổng hợp) |ngày = |nhà xuất bản = Trang Thông tin điện tử Nhà xuất bản Hà Nội |work= |ngày truy cập = 3 tháng 6 năm 2018 |ngôn ngữ = vi }}</ref>
Trên phương diện [[
{{Cquote|
''Người kiện có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu bày, hình quan để chậm án, không thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc này có ba lầm lỗi kèm theo, nhưng như vậy thì dân tình được thấu lên trên. Việc cai trị kẻ dưới thà sai để khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử ngay, cũng thấy được lòng trung hậu của vua.''|||Ngô Sĩ Liên}}
Dòng 129:
Tháng 3 năm 1285, cánh quân Nguyên của Toa Đô [[Lịch sử Chăm Pa#Cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông|từ Chiêm Thành]] đánh thốc vào mạn nam Đại Việt. Hưng Đạo vương xin Trần Nhân Tông sai Thượng tướng Thái sư [[Trần Quang Khải]] đón đánh [[Toa Đô]] ở [[Nghệ An]].{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=192–193}}{{sfn|Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm|1972|pp=239–243}} Quân Nguyên nhanh chóng đánh bật quân Việt khỏi Nghệ An và [[Thanh Hóa]], đẩy đại quân của Nhân Tông vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Trần Quốc Tuấn đưa hai vua chạy về vùng bờ biển ở [[Quảng Ninh]], [[Hải Phòng]] ngày nay. Trong hành trình rút lui, hai vua bị quân Nguyên đuổi gấp. Khi thấy quân Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên ([[Ninh Bình]]), ngày 7 tháng 4 năm 1285 Nhân Tông và Phụ hoàng lại vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị đối phương kìm kẹp.{{sfn|Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm|1972|pp=239–243}} Toa Đô đã đưa quân vào Thanh Hóa truy lùng nhà vua, nhưng không thể tìm ra ông.{{sfn|Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm|1972|pp=245–251}}{{sfn|Trần Xuân Sinh|2006|p=191}}
Trong thời gian này, nhiều tôn thất hoàng gia như Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Thượng vị Chiêu Văn hầu Trần Lộng đầu hàng quân Nguyên.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=193–194}} Tuy nhiên, quân Nguyên cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt [[Cây lương thực|lương thực]], không hạp [[khí hậu]] và liên tục bị dân binh Việt đánh phá sau lưng.{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|pp=58–59}}<ref>{{Chú thích web |url = http://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-in/thang-long-voi-ke-sach-thanh-da-trong-chong-giac-ngoai-xam/3221.html |tiêu đề = Thăng Long với kế sách "thanh dã" trong chống giặc ngoại xâm |tác giả = Hà Thành |ngày =
Tại Thanh Hóa, vua Trần đã chỉnh đốn, tổ chức lại lực lượng. Khoảng tháng 3 – 4 âm lịch, Nhân Tông đã nhận định trong một cuộc họp với các quan:{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=193–194}}{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|pp=58–59}}<ref name="chientranhvequoc1285"/>
Dòng 141:
Ngày 7 tháng 6 năm 1285, Hoàng đế Trần Nhân Tông rước Thượng hoàng ra bắc, đích thân đánh bại một lực lượng Nguyên trong trận Trường Yên ngày 7 tháng 6 năm 1285. Quân Nguyên chết hại ''"nhiều không kể xiết"''.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=193-194}}{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|pp=58-59}}{{sfn|Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm|1972|pp=245-251}}
Ngày 24 tháng 6, hai vua tấn công quân chủ lực của Toa Đô tại Tây Kết (Khoái Châu). Quân hai vua thắng to, chém chết Nguyên soái Toa Đô, bắt được hơn 5 vạn quân Nguyên, tịch thu một lượng lớn khí giới. Tổng quản quân Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Đến nửa đêm, Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hóa, hai vua thúc quân truy kích nhưng không bắt được, Ô Mã Nhi dùng thuyền vượt biển thoát thân.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=193–194}}{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|pp=58–59}}{{sfn|Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm|1972|p=245}} Theo Toàn thư, Nhân Tông khi thấy thủ cấp của Toa Đô đã nhận xét ''"người làm tôi phải nên như thế này"'', rồi cởi áo ngự phủ lên và sai người khâm liệm tử tế.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=194–195}} Cùng lúc đó, hai anh em Trần Quốc Tuấn, [[Tuệ Trung Thượng Sĩ|Quốc Tung]] mở nhiều cuộc tấn công lớn trên bờ bắc sông Hồng và quét sạch cánh quân Thoát Hoan khỏi Đại Việt.{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|pp=58–59}}{{sfn|Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm|1972|pp=254–261}}<ref name="chientranhvequoc1285"/> Ngày 9 tháng 7 năm 1285, hai vua ca khúc khải hoàn trở về Thăng Long.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=194–195}} Sách ''[[Việt sử tiêu án]]''
{{Cquote|
''Mỗi lần có tin báo quân Nguyên sang cướp, thì tất là Vua thân hành ra ngoài trông coi quân, khi đi đông, đi tây, không đi nhất định đường nào, khi ở trên bộ, khi ở thủy không đóng nhất định ở đâu, đó không phải là rát, là vì Vua ở bên ngoài, thì dễ hiệu triệu thiên hạ. Cổ lệ lòng hăng hái của quân sĩ, chư tướng thì tiện việc tâu xin mệnh lệnh, tam quân thì vui lòng xông pha, lính tráng đều là quân của nước, của nhà giàu là của nước, có cơ hội nào thì cổ động quân sĩ xông vào trước, gặp tình thế không may thì tùy tiện mà chống giữ; khi tiến quân thì nhanh như chớp nhoáng, khi lui về thì như rồng rắn ẩn thân, giặc không biết đâu mà lường đạc được, nếu chỉ nấp giữ ở trong thành, thì địch coi đó là sào huyệt, chúng sẽ chặn đường không cho vận lương đến, và giữ viện binh không vào được, đến nỗi lương hết, lực cùng, chả nguy lắm sao. Có tin giặc đến mà Vua lập tức đi ra ngoài, đó là kỳ kế, liệu sức giặc và tính cách đánh của nhà Trần.''|||Việt sử tiêu án}}
Dòng 196:
Sau thất bại trong cuộc chiến năm 1288, nhà Nguyên vẫn chưa bỏ mộng xâm lược Đại Việt.{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|p=63–65}} Mặc dù Nhân Tông đã sai Nghiêm Trọng Duy và Trần Tử Trường sang Nguyên dâng lễ vật và "tạ tội không vào chầu" vào tháng 9 âm lịch năm 1291, Hốt Tất Liệt lại cử Trương Lập Đạo và Thiếp Mộc Nhĩ sang dụ Nhân Tông đến chầu vào cuối năm 1291 – đầu năm 1292. Theo tư liệu ''Trương Thượng thư Hành lục'' chép trong ''An Nam chí lược'' của [[Lê Tắc]], vua Nhân Tông đãi Lập Đạo thịt rượu rất thịnh soạn và còn đề thơ tặng sứ giả, nhưng tiếp tục lấy cớ tang cha, từ chối sang chầu. Sau khi Lập Đạo về nước, Nhân Tông sai Nguyễn Đại Phạp và Hà Duy Nghiêm sang cống nhà Nguyên.<ref name="lemanhthathauchien"/>{{sfn|Lê Tắc|1961|pp=28–30}} Năm 1293, sau khi Nhân Tông truyền ngôi cho con là [[Trần Anh Tông]], Hốt Tất Liệt lại sai sứ sang bắt vua Trần vào chầu. Anh Tông cáo bệnh không đi và sai Đào Tử Kỳ sang cống nạp.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=203}} Nhà Nguyên giam Tử Kỳ ở Giang Lăng và sửa soạn tấn công Đại Việt. Nhưng việc chuẩn bị chưa hoàn tất thì Hốt Tất Liệt chết; tân hoàng đế [[Nguyên Thành Tông]] đã hủy bỏ kế hoạch xâm chiếm Đại Việt, đồng thời thả Tử Kỳ về nước.<ref name="lemanhthathauchien"/>{{sfn|Trần Trọng Kim|1971|p=63-65}}{{sfn|Lê Tắc|1961|p=106}}
==Thái thượng hoàng==
Hàng 250 ⟶ 246:
Tháng 10 (âm lịch) năm [[1299]], Nhân Tông rời đến [[Quần thể di tích danh thắng Yên Tử|Yên Tử]] ([[Quảng Ninh]]), lấy pháp danh '''Hương Vân Đại Đầu đà''' (香雲大頭陀) và tu hành theo ''thập nhị đầu đà'' (mười hai điều khổ hạnh).<ref name="thanhdangnguluan"/> Ông còn có đạo hiệu là '''Trúc Lâm Đại Đầu đà''' (竹林大頭陀) hay '''Trúc Lâm Đại sĩ''' (竹林大士) và '''Giác hoàng Điều ngự''' (覺皇調御).{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=220}}{{sfn|Nhiều tác giả|1988|pp=451–455}} Tại Yên Tử, Điều ngự đã mở tịnh xá, thuyết giảng độ tăng, thâu nhận được khá nhiều đệ tử.<ref name="tamto95">{{harvnb|Thích Phước Sơn|1995|loc=Phần một: [http://www.vnbet.vn/tam-to-thuc-luc/phan-mot-nhung-ghi-chep-trung-thuc-ve-truc-lam-dai-si-to-thu-nhat-nui-yen-tu-11522-11522.html "Những ghi chép trung thực về Trúc Lâm Đại sĩ, Tổ thứ nhất núi Yên Tử"]}}</ref> Vào thế kỷ XI – XIII, Phật giáo Đại Việt tồn tại chủ yếu dựa trên 3 dòng thiền [[Tì-ni-đa-lưu-chi]], [[Thảo Đường]] và [[Vô Ngôn Thông]]. Điều ngự đã hợp nhất các tông phái này vào dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, còn gọi là [[Thiền phái Trúc Lâm]].<ref name="khuongviet2007">{{chú thích tạp chí |last= |first= |author= |date=tháng 12 năm 2007 |work=Khuông Việt|publisher= Học viện Phật giáo Việt Nam|location= Hà Nội |volume=1|title=Khái quát về lịch sử Phật giáo Việt Nam |issue= |pages= 70-71 |id= |url=https://books.google.com.vn/books?id=6kjwCAAAQBAJ&printsec=frontcover&hl=vi&source=gbs_ge_summary_r&cad=0#v=onepage&q&f=false |access-date =6 tháng 12 năm 2016 |quote= }}</ref> Đây được xem là giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật tại [[Việt Nam]].<ref>{{Chú thích web |url = http://giacngo.vn/thuvien/2016/09/14/7FC090/ |tiêu đề = Hướng tới kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN: Kỳ 1: Những dấu ấn trên con đường vận động thống nhất Phật giáo VN |tác giả = Hoàng Độ |ngày = |nhà xuất bản = Giáo hội Phật giáo Việt Nam |work = Giác Ngộ |ngày tháng = 14 tháng 9 năm 2016 |ngày truy cập = 5 tháng 12 năm 2016 |ngôn ngữ = vi |archive-date = 2016-10-20 |archive-url = https://web.archive.org/web/20161020010032/http://giacngo.vn/thuvien/2016/09/14/7FC090/ |url-status = dead }}</ref> Thiền phái Trúc Lâm vừa tiếp thu nền tảng Phật giáo [[Nam Á]] và [[Thiền tông|thiền Đông Độ]], vừa sử dụng các giá trị văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ bi – Trí tuệ của Phật pháp.<ref name="baoanh2016"/><ref name="khuongviet2007"/> Bản thân Điều ngự không chỉ an cư tại Yên Tử, mà đi thuyết pháp nhiều lần ở các chùa như Phổ Minh ([[Thiên Trường]]), Sùng Nghiêm ([[Chí Linh]]), [[chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)|Vĩnh Nghiêm]] ([[Yên Dũng]]) và Báo Ân – Siêu Loại (nay thuộc [[Gia Lâm]], [[Hà Nội]]).{{sfn|Nguyễn Tài Thư|1988|p=147}} Ông cũng xây dựng nhiều tự viện và đi giáo hóa trong cả nước, kể cả ở thôn quê lẫn thành thị. Trên cương vị là thượng hoàng-thiền sư, ông đã dạy dân bài trừ các tập tục mê tín, dị đoan và tu dưỡng đức hạnh theo giáo pháp [[Thập thiện]] (mười điều thiện).<ref name="thuonghoangxuatgia"/><ref name="dangngoaiphan1">{{harvnb|Nguyễn Hiền Đức|1973|loc=chương 1–C–1: [http://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/8586-Lich-su-Phat-giao-Dang-Ngoai-Chuong-1-Truyen-thong-Truc-Lam-Yen-Tu-C-Hanh-trang-tam-to-Truc-Lam-1-Hanh-trang-so-to-Truc-Lam.html "Truyền thống Trúc Lâm Yên Tử–Hành trạng tam tổ Trúc Lâm–Hành trạng sơ tổ Trúc Lâm"]}}</ref>{{sfn|Lê Tắc|1961|p=106}}<ref name="tamto95"/> Ông vẫn góp ý cho một số vấn đề chính sự, đồng thời khuyên bảo Anh Tông từ bỏ rượu chè và cúng dường cho tăng chúng.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=208–216}}{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=230}}<ref name="thuonghoangxuatgia"/><ref name="thichphuocson2">{{harvnb|Thích Phước Sơn|1995|loc=Phần hai: [http://www.vnbet.vn/tam-to-thuc-luc/phan-hai-vi-to-su-doi-thu-hai-cua-phai-truc-lam-duoc-dac-phong-pho-tue-minh-giac-tinh-tri-dai-ton-gia-11523-11523.html "Vị tổ sư thứ hai của phái Trúc Lâm (được đặc phong Phổ Tuệ Minh Giác Tịnh Trí Đại Tôn Giả"]}}</ref>
Tháng 3 âm lịch năm 1301, Giác hoàng Điều ngự du hóa đến châu [[Bố Chính]] – một vùng đất địa đầu phía nam của Đại Việt – và dựng lên am Trì Kiến<ref name="tamto95"/>. Từ Bố Chính, ông sang Chiêm Thành và ở lại đây gần một năm.
Sau cuộc vân du ở [[Chiêm Thành]], Điều ngự về [[Thiên Trường|phủ Thiên Trường]] vào tháng 1 âm lịch năm 1303 để "''mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới thí"'' (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư).{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=208–216}} Năm 1304, Điều ngự đến kinh đô Thăng Long trong sự đón tiếp long trọng của Anh Tông cùng vương hầu, quan lại. Tất cả họ đều được trao tâm giới Bồ-tát tại gia.<ref name="thanhdangnguluan"/><ref name="tamto95"/> Năm 1304, khi đang hoằng hóa tại huyện [[Nam Sách]] ([[Hải Dương]]), Điều ngự đã gặp và thu nhận [[Pháp Loa]] (Đồng Kiên Cương; 1284 – 1330) và làm đệ tử xuất gia. Sau đó ông đào tạo cho Pháp Loa trở thành người kế thừa thiền phái của mình.{{sfn|Nguyễn Tài Thư|1988|p=148}} Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1308, Điều ngự chính thức công nhận Pháp Loa làm người nối pháp.<ref name="dangngoaiphan1"/> Lễ truyền đăng cho Pháp Loa được cử hành tại chùa Báo Ân-Siêu Loại và được tường thuật qua sách ''Tam Tổ thực lục'' (tờ 18b3-19a8) như sau:<ref name="lemanhthattruclam"/><ref name="tamto95"/>{{sfn|Nguyễn Tài Thư|1988|p=148}}
Hàng 422 ⟶ 416:
* {{Citation | author=Nguyễn Tài Thư | authorlink= | title=Lịch sử Phật giáo Việt Nam | publisher=Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội | place= Hà Nội| volume= | url= | edition= | year=1988 | ISBN=1565180984}}
* {{chú thích sách|author=Lê Mạnh Thát|authorlink=Lê Mạnh Thát|title=Trần Nhân Tông: Con người và tác phẩm|publisher=Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh|year=1999}}
* {{chú thích sách |tác giả =Nguyễn Hiền Đức |tựa đề= Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài |dịch tựa đề= |url=
* {{Citation|first=Oscar|last=Chapuis|title=A history of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc|url=https://books.google.com/books?id=Jskyi00bspcC&lpg=PA85&dq=%22tran%20anh%20tong%22&as_brr=3&hl=fr&pg=PA85#v=onepage&q=%22tran%20anh%20tong%22&f=false|year=1995|publisher=Greenwood Publishing Group|isbn=0-313-29622-7}}
{{refend}}
|