Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bismarck (lớp thiết giáp hạm)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa ngày tháng năm Soạn thảo trực quan |
|||
Dòng 1:
{{for|lớp tàu corvette của Hải quân Đế quốc Đức|Bismarck (lớp tàu corvette)}}Trọng tải choán nước của ''Bismarck'' và ''Tirpitz'' cũng bị hạn chế đáng kể bởi hệ thống cơ sở vật chất hiện có ở hai xưởng đóng tàu Kiel và Wilhelmshaven, và Kênh đào Kaiser Wilhelm, hơn là bị các thỏa thuận quốc tế kìm kẹp. Ngày 11 tháng 2 năm 1937, Văn phòng Xây dựng đã báo cáo tới Đô đốc Raeder rằng hai con tàu này không thể đóng quá mức choán nước 43.000 tấn do sự hạn chế của bến cảng và kênh đào không đủ sâu. Họ cũng đề xuất đến việc đóng thêm một con tàu thứ ba với mức choán nước 35.000 tấn theo các điều khoản hạn chế của [[Hiệp ước Hải quân Luân Đôn|Hiệp ước Hải quân London]].{{sfn|Garzke & Dulin|p=206}} Đô đốc [[Werner Fuchs]], Chủ nhiệm Văn phòng Chỉ huy của [[Bộ Tư lệnh Hải quân Đức Quốc Xã]] (Oberkommando der Marine), đã khuyên Raeder và Hitler rằng mức choán nước lớp tàu này cần phải được thay đổi để các con tàu mới có thể đáp ứng được các tiêu chí của Hiệp ước Hải quân London. Do Nhật Bản từ chối ký kết hiệp ước mới này, nên vào ngày 1 tháng 4 năm 1937, một điều khoản điều chỉnh cho phép các bên ký hiệp ước đón những con tàu có mức tải trọng tối đa 46.000 tấn bắt đầu được thông qua, và họ đi đến kết luận cuối cùng về mức tối đa là 42.1000 tấn. Do đó, các ý tưởng thay đổi của Fuchs đã không được áp dụng.{{sfn|Garzke & Dulin|p=208}}▼
▲Trọng tải choán nước của ''Bismarck'' và ''Tirpitz'' cũng bị hạn chế đáng kể bởi hệ thống cơ sở vật chất hiện có ở hai xưởng đóng tàu Kiel và Wilhelmshaven, và Kênh đào Kaiser Wilhelm, hơn là bị các thỏa thuận quốc tế kìm kẹp. Ngày 11 tháng 2 năm 1937, Văn phòng Xây dựng đã báo cáo tới Đô đốc Raeder rằng hai con tàu này không thể đóng quá mức choán nước 43.000 tấn do sự hạn chế của bến cảng và kênh đào không đủ sâu. Họ cũng đề xuất đến việc đóng thêm một con tàu thứ ba với mức choán nước 35.000 tấn theo các điều khoản hạn chế của [[Hiệp ước Hải quân Luân Đôn|Hiệp ước Hải quân London]].{{sfn|Garzke & Dulin|p=206}} Đô đốc [[Werner Fuchs]], Chủ nhiệm Văn phòng Chỉ huy của [[Bộ Tư lệnh Hải quân Đức Quốc Xã]] (Oberkommando der Marine), đã khuyên Raeder và Hitler rằng mức choán nước lớp tàu này cần phải được thay đổi để các con tàu mới có thể đáp ứng được các tiêu chí của Hiệp ước Hải quân London. Do Nhật Bản từ chối ký kết hiệp ước mới này, nên vào ngày 1 tháng 4 năm 1937, một điều khoản điều chỉnh cho phép các bên ký hiệp ước đón những con tàu có mức tải trọng tối đa 46.000 tấn bắt đầu được thông qua, và họ đi đến kết luận cuối cùng về mức tối đa là 42.1000 tấn. Do đó, các ý tưởng thay đổi của Fuchs đã không được áp dụng.{{sfn|Garzke & Dulin|p=208}}
Mặc dù Raeder và các sĩ quan hải quân cấp cao khác đã dự tính đến việc sử dụng ''Bismarck'' và ''Tirpitz'' để săn các đoàn tàu vận tải trên các tuyến đường biển của Pháp và sau đó là Anh tại khu vực Đại Tây Dương, và thực tế chúng đã được sử dụng cho các nhiệm vụ đó khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, nhưng những con tàu này không được thiết kế cho các nhiệm vụ đó. Do động cơ tuabin hơi nước của tàu không đủ mạnh để cung cấp cho tàu một tầm hoạt động xa hiệu quả, nên Hải quân Đức đã quyết định cho lớp ''Bismarck'' lắp đặt hệ thống vũ khí và bố trí lớp giáp phù hợp với một trận hải chiến truyền thống ở cự ly tương đối gần tại trong và ngoài [[Biển Bắc]]. Sự khác biệt giữa cách ''Bismarck'' và ''Tirpitz'' được thiết kế và cách chúng được sử dụng đã phản ánh sự mâu thuẫn về mặt chiến lược của Hải quân Đức - điều đã tạo ra những ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình xây dựng lực lượng hải quân của họ trong những năm 1930.{{sfn|Garzke & Dulin|pp=204–205}}{{sfn|Mulligan|pp=1042–1043}}
|