Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiện Thiện”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: |thumb| → |nhỏ| (2), [[Image: → [[Hình: (2)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
Năm [[126 TCN]], sứ thần Trung Quốc là [[Trương Khiên]] (張騫) đã mô tả [[Lâu Lan]] là một thành vững chắc gần [[Lop Nur]].<ref>Watson (1993), p. 233.</ref>
 
Năm [[77 TCN]], sứ thần Trung Quốc là [[Phó Giới Tử]] giết chết vua Lâu Lan là An Quy Nguyên. Vương quốc này sau đó trở thành một [[Chính phủ bù nhìn|nước bù nhìn]] của [[người Hán]] và được đổi tên thành Thiện Thiện.<ref name="Hulsewé 1979, p. 89">Hulsewé (1979), p. 89.</ref>
 
Vương quốc Thiện Thiện bao gồm một thành Lâu Lan chiến lược có tường bao bọc gần góc tây bắc của Lop Nur, gần đó là dòng chảy của [[sông Tarim]] vào Lop Nur. Di chỉ Lâu Lan bao phủ 10,8 ha (26,8 mẫu Anh) với một tượng Phật cao khoảng 10 mét (33 feet), một số ngôi nhà và mương thủy lợi.<ref name="Hill 2009, p. 88">Hill (2009), p. 88.</ref>
 
Do có vị trí nằm trên tuyến đường chính từ [[Trung Nguyên]] sang [[Tây Vực]], kiểm soát cả tuyến đường phía nam giữa [[Đôn Hoàng]] và [[Khotan]], và tuyến đường chính của [[Con đường tơ lụa]] từ Đôn Hoàng tới [[Korla]] [[Quy Từ|Kucha]] và [[Kashgar]] vào thời [[nhà Hán|Tây Hán]] và [[nhà Hán|Đông Hán]]; nhà Hán và [[Hung Nô]] thường xuyên xung đột với nhau để kiểm soát vương quốc. ''[[Hán thư]]'' thuật lại: "nó nằm gần với Hán và phải đối mặt với các đống đất Bạch Long. Người dân địa phương thiếu nước và đồng cỏ, và thường phải đi xa để lấy nước. Ngoài ra, vương quốc thường xuyên bị cướp phá, bị trách phạt hoặc bị tàn phá bởi các viên quan hay binh lính và nhận thấy đất nước không có lợi khi giữ tiếp xúc với Hán. Về sau nhà nước này lại tiến hành do thám cho [[Hung Nô]], thường chặn và giết chết các sứ thần Hán."<ref name="Hulsewé 1979, p. 89"/> Hung Nô nhiều lần giao tranh với người Hán để kiểm soát khu vực cho đến khi bước vào thế kỷ 2 SCN,<ref>Hill (2009), p. 3 and nn.</ref> và được [[Ngụy lược]] (魏略) thuật lại là một vương quốc độc lập.<ref>[http://depts.washington.edu/silkroad/texts/weilue/weilue.html] Draft annotated translation of the ''Weilüe'' by John Hill</ref>
 
Một đội quân đồn trú gồm 1.000 lính được nhà Hán lập ra tại Lâu Lan vào năm 260. Nơi này bị bỏ hoang vào năm 330 do thiếu nước khi nguồn nước cung cấp nước chính là [[sông Tarim]] đổi dòng, quân đồn trú buộc phải di chuyển 50&nbsp;km về phía nam để đến Hải Đầu (海頭). Thành Doanh Bàn (营盘) ở phía tây bắc vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của người Hán cho đến thời [[nhà Đường]].<ref>Baumer (2000), pp. 125-126, 135-136.</ref>
 
Nhà sư hành hương Trung Quốc là [[Pháp ĐiềnHiển]] (法顯), đã ở lại Thiện Thiện trong một tháng sau chuyến đi kéo dài 17 ngày từ Đôn Hoàng vào năm 399. Ông đã mô tả vương quốc này là "gồ ghề và đồi núi, với một lớp đất đai mỏng và cằn cỗi. Trang phục của dân thường là vải thô, và giống như trang phục trên đất Hán, một số mặc đồ nỉ và vải xéc thô khác.... Nhà vua ban hành luật lệ, và tại vương quốc này có thể có trên bốn nghìn sư tăng, tất cả đều tu học [[Tiểu thừa]].... (các sư tăng)...đều tu học bằng sách chữ Phạn và tiếng Phạn."<ref>Legge (1896), pp. 12-14.</ref>
 
Tuy nhiên, từ thế kỷ thứ 5 trở đi, vùng đất này thường xuyên bị các sắc dân du mục như [[Thổ Dục Hồn]], [[Nhu Nhiên]] và [[Đinh Linh]] xâm lược, và vì thế nó dần dần bị bỏ rơi. Đến mùa xuân năm 442, [[Thư Cừ An Chu]] đã dân tàn dư của [[Bắc Lương]] xâm lược Thiện Thiện, quốc vương Thiện Thiện phải chạy trốn đến [[Thả Mạt]],<ref name="Hill 2009, p. 88"/> và sau đó Thiện Thiện được cai quản từ Thả Mạt.<ref>[[:zh:s:魏書/卷102|Ngụy thư-quyển 102]]: 真君三年,鄯善王比龍避沮渠安周之難,率國人之半奔且末,後役屬鄯善。 Dịch: Năm [[Bắc Ngụy Thái Vũ Đế|Chân Quân]] thứ ba, Thiện Thiện vương Bỉ Long nhàm tránh nạn Thư Cừ An Chu, đã mang theo một nửa quốc nhân trốn đến Thả Mạt, sau chiến tranh lại kiểm soát Thiện Thiện.</ref>
Lâu Lan có lẽ đã bị bỏ hoang sau khi bị [[Thư Cừ An Chu]] (沮渠安周) xâm chiếm vào mùa xuân năm 442 và vua của Thiện Thiện chạy đến [[Thả Mạt]].<ref name="Hill 2009, p. 88"/>
Khoảng năm 630 (bắt đầu thời [[nhà Đường]]), những người Thiện Thiện còn lại, dưới sự lãnh đạo của Thiện Phục Đà (鄯伏陁), đã di cư đến [[Kumul (thành phố)|Cáp Mật]] tại vùng phía Bắc.<ref name="lopnor">{{cite web |url=http://dsr.nii.ac.jp/rarebook/06/index.html.en |title=Hedin, the Man Who Solved the Mystery of the Wandering Lake: Lop Nor and Lou-lan |author=Makiko Onishi and Asanobu Kitamoto |publisher=Digital Silk Raod }}</ref> Nhà sư [[Huyền Trang]] đã đi qua khu vực này vào năm 644 khi từ Thiên Trúc trở về Đại Đường, ông đã đến một thị trấn được gọi là Nạp Phược Ba (納縛波, được cho là Charklik), tức Lâu Lan, và ông cũng viết về Thả Mạt: "Tồn tại một thành quách, song không có dấu hiệu của một người nào".<ref>[http://books.google.co.uk/books?id=77cc9HpdiCIC&pg=PA876&lpg=PA876&=false#v=onepage&q&f=false Da Tang Xiyu Ji] Original text: 从此东行六百余里至折摩驮那故国。即涅末地也。城郭岿然人烟断绝。复此东北行千余里至纳缚波故国。即楼兰地也。</ref>
 
==Chú thích==