Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sơn Tây”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 36:
| Website = [http://www.shanxigov.cn www.shanxigov.cn] ([[Tiếng Trung]])
}}
'''Sơn Tây''' ({{zh-cpw|c=山西|p=Shānxī|w=Shan-hsi}}, {{Audio|zh-Shanxi.ogg|nghe}}; [[bính âm bưu chính]]: ''Shansi'') là một [[tỉnh Trung Quốc|tỉnh]] ở [[Hoa Bắc|phía Bắc]] của [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Trung Quốc]]. Giản xưng của Sơn Tây là “Tấn” (晋), theo tên của [[nước Tấn]] tồn tại trong thời kỳ [[Tây Chu]] và [[Xuân Thu]].
{{đang viết}}
'''Sơn Tây''' ({{zh-cpw|c=山西|p=Shānxī|w=Shan-hsi}}, {{Audio|zh-Shanxi.ogg|nghe}}; [[bính âm bưu chính]]: ''Shansi'') là một [[tỉnh Trung Quốc|tỉnh]] ở [[Hoa Bắc|phía Bắc]] của [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Trung Quốc]]. Giản xưng của Sơn Tây là “Tấn” (晋), theo tên của [[nước Tấn]] tồn tại trong thời kỳ [[Tây Chu]] và [[Xuân Thu]].
 
Tên gọi Sơn Tây có nghĩa là “phía Tây núi”, ý đề cập đến vị trí của tỉnh ở phía Tây của [[Thái Hành Sơn]].<ref>{{chú thích web|title=趣味文字:中国各省及自治区名称历史由来和变化|url=http://www.people.com.cn/GB/shenghuo/1090/2435218.html|publisher=人 民 网|accessdate=2013-01-24}}</ref> Sơn Tây giáp [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]] về phía Đông, [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]] về phía Nam, [[Thiểm Tây]] về phía Tây và [[Nội Mông]] về phía Bắc. Tỉnh lỵ của Sơn Tây là thành phố [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]].
 
== Lịch sử ==
Hàng 45 ⟶ 44:
Sơn Tây được xem là một trong những phát địa của dân tộc Trung Hoa,<ref name=sst>{{chú thích web|title=历史沿革|url=http://www.shanxi.gov.cn/n16/n8319541/n8319597/n8319807/8497344.html|publisher=山西门户网站|accessdate=2013-01-24}}</ref> có lịch sử thành văn trong ba nghìn năm. Các di chỉ văn hóa Tây Hà Độ và văn hóa Đinh Thôn thể hiện rằng ngay từ [[thời đại đồ đá cũ]], loài người đã có nhiều hoạt động sinh hoạt trên địa bàn Sơn Tây ngày nay. Trong [[truyền thuyết]], Sơn Tây là khu vực hoạt động chủ yếu của [[Hoàng Đế]] và [[Viêm Đế]]- thủy tổ của dân tộc Trung Hoa. Ba vị vua thời thượng cổ nổi tiếng của Trung Quốc là [[Nghiêu]], [[Thuấn]], [[Hạ Vũ|Vũ]] đều kiến đô lập nghiệp trên đất Sơn Tây: kinh đô của Nghiêu nằm ở Bình Dương (nay thuộc Lâm Phần), kinh đô của Thuấn nằm ở Bồ Bản (nay thuộc [[Vĩnh Tế, Vận Thành|Vĩnh Tế]]), kinh đô của Vũ nằm ở An Ấp (nay thuộc huyện [[Hạ (huyện)|Hạ]]).<ref name=sst/> Chính quyền nô lệ đầu tiên trong [[lịch sử Trung Quốc]]- [[nhà Hạ|vương triều Hạ]] đã được thành lập trên khu vực bao gồm nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay. Sang thời [[nhà Thương]], Sơn Tây cũng là một khu vực thống trị chủ yếu của triều đình. Ở Lâm Phần ngày nay có Nghiêu miếu và Nghiêu lăng, ở [[Thấm Thủy]] có khu Thuấn Vương Bình, Long Môn ở [[Hà Tân, Vận Thành|Hà Tân]] được xem là nơi vua Vũ trị thủy, còn được gọi là Vũ Môn Khẩu.
 
Theo [[Sử ký Tư Mã Thiên|Sử ký]], khi [[Chu Công Đán]] phụ chính [[Chu Thành Vương]], có một chư hầu là nước Đường nổi loạn, Chu công Đán mang quân tiêu diệt. Sau đó, Chu Thành Vương bèn chính thức phong cho Cơ Ngu làm vua chư hầu nước Đường, gọi là [[Đường Thúc Ngu]]. Đất Đường ở khu vực phía đông [[Hoàng Hà]] và [[sông Phần|Phần Hà]], sau này nước Đường đổi tên thành [[nước Tấn]]. Thời kỳ đầu [[Tây Chu]], lãnh thổ của [[nước Ân]] bao gồm một phần đông nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay; [[Hàn (nước Tây Chu)|nước Hàn]] tập trung quanh khu vực Hàn Thành thuộc tỉnh Thiểm Tây và [[Hà Tân, Vận Thành|Hà Tân]] thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay.
[[Tập tin:春秋诸侯分布图(晋国).png|nhỏ|trái|Bản đồ [[nước Tấn]] (晋) thời [[Xuân Thu]], phần lớn lãnh thổ thuộc Sơn Tây ngày nay]]
Năm 805 TCN, [[Tấn Mục hầu]] nghe lệnh [[Chu Tuyên vương]], đem quân đánh [[Tây Nhung|tộc Nhung]], năm 802 TCN, ông đánh thắng đất Thiên Mẫu. Thời Xuân Thu, đại bộ phận tỉnh Sơn Tây thuộc về nước Tấn. Đến thời [[Tấn Văn công]], nước Tấn xưng bá [[Trung Nguyên]]. Các kinh đô của Tấn trước sau đều nằm trên địa phận Sơn Tây: Đường (sau gọi là Tấn)<ref group="chú"> nay thuộc địa cấp thị [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]], [[Sơn Tây, Trung Quốc|Sơn Tây]])</ref>, Khúc Ốc <ref group="chú">nay thuộc huyện [[Khúc Ốc]], Sơn Tây</ref>, Giáng (còn gọi là Dực)<ref group="chú">nay thuộc đông nam huyện [[Dực Thành]], Sơn Tây</ref>, Tân Giáng (nguyên gọi là Tân Điền)<ref group="chú">nay thuộc huyện cấp thị [[Hầu Mã]], Sơn Tây</ref> Đầu thời Đông Chu, hai chi trưởng – thứ nước Tấn tại đất Dực và đất Khúc Ốc đã nổ ra chiến tranh giành ngôi vị quân chủ. Chiến tranh kéo dài gần 100 năm, trải qua 4 thế hệ mới kết thúc bằng thắng lợi của chi thứ Khúc Ốc với kết quả 5 vua Tấn ngành trưởng bị giết. Các [[lục khanh|khanh tộc]] tại nước Tấn về sau tiến hành tranh chấp quyền lực với nhau, lấn át cả vua Tấn. Năm 453 TCN, trong [[trận Tấn Dương]], ba nhà Triệu, Hàn, Ngụy hợp binh đánh bại quân họ Trí, ba nhà này sau đó cùng chia đất của họ Trí và nắm quyền nước Tấn. Nước Tấn sau đó hình thành cục diện bị chia ba, đến năm 403 TCN thì nước Tấn diệt vong, đây cũng là mốc thời gian mà nhiều học giả nhận định là khởi đầu thời kỳ [[Chiến Quốc]], cũng vì nguyên do này mà Sơn Tây còn được gọi là "Tam Tấn".
 
Thời [[Chiến Quốc]], [[nước Triệu]] đặt kinh đô tại Tấn Dương<ref group="chú">nay thuộc Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây</ref>, [[nước Hàn]] đặt kinh đô tại Bình Dương<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Lân Phần, tỉnh Sơn Tây</ref>, [[nước Ngụy]] trong thời gian 403 TCN-361 TCN đặt đô thành tại An Ấp<ref group="chú">nay thuộc tây bắc [[Hạ (huyện)|huyện Hạ]], tỉnh Thiểm Tây</ref> Sau trung kỳ Chiến Quốc, kinh đô của Triệu và Ngụy phân biệt di dời đến địa phận Hà Bắc và Hà Nam ngày nay.
 
=== Thời Tần, Hán đến Nam-Bắc triều ===
Sau khi thống nhất Trung Quốc, [[Tần Thủy Hoàng]] phân [[thiên hạ]] thành 49 quận, ban đầu trên địa bàn Sơn Tây có Thái Nguyên quận và Thượng Đảng quận, về sau phân tách thành 5 quận: Nhạn Môn quận, Đại quận, Thái Nguyên quận, Thượng Đảng quận, Hà Đông quận. Trong những năm Nguyên Phong thời [[Hán Vũ Đế]], [[nhà Hán|triều Hán]] thiết lập Tịnh châu thứ sử bộ trên địa phận Sơn Tây. Đến thời [[Hán Quang Vũ Đế]], người [[Hung Nô]] tiến gần hơn vào Trung Nguyên, nuôi ngựa trên [[Lã Lương Sơn]] (呂梁山)<ref group="chú">dãy núi nằm ở phía tây tỉnh [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]], phía tây dãy núi này là Thiểm Tây</ref> và lưu vực [[sông Phần|Phần Hà]]. Thời Đông Hán, Tịnh châu được phân thành 9 quận: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Tây Hà, Vân Trung, Định Tương, Nhạn Môn, Sóc Phương, Ngũ Nguyên, đến những năm cuối Đông Hán thì được nhập vào Kí châu.
 
Năm 216, [[Tào Tháo]] phân người Hung Nô ở Sơn Tây ngày nay thành 5 bộ: Tịnh châu Tư thị (tại [[Phần Dương]] ngày nay) là tả bộ, Kì (tại [[Kỳ (huyện)|huyện Kỳ]] ngày nay) là hữu bộ, Bồ Tử (tại [[Thấp (huyện)|huyện Thấp]] ngày nay) là nam bộ, Tân Hưng (tại [[Hãn Châu]] ngày nay) là bắc bộ, Đại Lăng (tại [[Văn Thủy, Lữ Lương|Văn Thủy]] ngày nay) là trung bộ, nhân khẩu đạt vài trăm nghìn người. Ngoài ra, trên địa bàn Sơn Tây còn có người [[Yết]] ở [[Vũ Hương]], bộ lạc Thát Bạt của người [[Tiên Ti]] cư trú tại [[Đại (huyện)|huyện đại]] và [[Đại Đồng, Sơn Tây|Đại Đồng]]. Năm 220, [[Tào Ngụy]] thiết lập Tịnh châu trên địa phận Sơn Tây, chia làm 6 quận: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Tây Hà, Nhạn Môn, Nhạc Bình, Tân Hưng.
[[Tập tin:Buddhas in collapsed cave Yungang.jpg|nhỏ|phải|[[Hang đá Vân Cương]] tại Đại Đồng, được tạc từ thời Bắc Ngụy]]
Đến thời [[Tây Tấn]], Sơn Tây thuộc về Tịnh châu: Thượng Đảng quận<ref group="chú">trung tâm ở [[Trường Trị]], đông nam bộ Sơn Tây ngày nay</ref>, Thượng Cốc quận<ref group="chú">ở bắc bộ Thiểm Tây ngày nay</ref>. Sau khi [[triều Tấn]] suy yếu do [[loạn bát vương]], vào năm 304, thủ lĩnh Hung Nô là [[Lưu Uyên]] đã lập quốc, đặt quốc hiệu là [[Hán Triệu|Hán]], định đô tại Li Thạch<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Lữu Lương, tỉnh Sơn Tây</ref>, năm 305, sau một nạn đói, ông dời đô đến Lê Đình<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Trường Trị, tỉnh Sơn Tây</ref> Sau đó, khu vực Sơn Tây trước sau thuộc nước [[Hậu Triệu]] của tộc Yết, nước [[Nhiễm Ngụy]] của tộc Hán, nước [[Tiền Yên]] của người Tiên Ti, nước [[Tiền Tần]] của tộc [[người Đê|Đê]], nước [[Hậu Tần]] của tộc [[người Khương|Khương]]. Do chiến loại trong thời [[Ngũ Hồ thập lục quốc]], kinh tế Sơn Tây bị phá hoại nghiêm trọng.
 
[[Thác Bạt Khuê]] đã lập ra [[Bắc Ngụy]] vào năm 386, hai năm sau, để gần hơn về mặt địa lý với các lãnh thổ mới chinh phục được, ông đã thiên đô Bắc Ngụy đến Bình Thành<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây</ref>. Bắc Ngụy sau đó thống nhất phương bắc Trung Quốc, mở ra thời kỳ [[Nam-Bắc triều (Trung Quốc)|Nam-Bắc triều]] trong lịch sử Trung Quốc. Sau đó, đến năm 534, Bắc Ngụy phân liệt thành [[Đông Ngụy]] và [[Tây Ngụy]]. Thực quyền Đông Ngụy nằm trong tay đại tướng [[Cao Hoan]]. Năm 543, nhà Đông Ngụy cho đắp thêm Trường thành tại Sơn Tây dài 150 dặm. Năm 550, con của Cao Hoan là [[Bắc Tề Văn Tuyên Đế|Cao Dương]] tiếm vị Đông Ngụy, lập ra [[Bắc Tề]], cha con Cao Hoan lấy Tấn Dương làm biệt đô. Thực quyền Tây Ngụy nằm trong tay [[Vũ Văn Thái]], đến năm 557 thì hậu duệ của Vũ Văn Thái là [[Vũ Văn Giác]] cũng tiếm vị Tây Ngụy, lập ra [[Bắc Chu]]. Thời Bắc Ngụy, [[Phật giáo]] lần đầu tiên có được sự hưng thịnh tại Trung Quốc, có tới ba vạn chùa viện, tăng ni lên đến 200 vạn, nhà sư [[Pháp Hiển]] bắt đầu chuyến đi huyền thoại tới [[Ấn Độ]] của ông từ Sơn Tây. Việc xây đục [[hang đá Vân Cương]] đã được hoàn thành trong khoảng thời gian 453—495453-495.
=== Từ thời Tùy đến Kim ===
[[Tập tin:The Fugong Temple Wooden Pagoda.jpg|nhỏ|phải|Tháp Thích Ca của chùa Phật Cung ở huyện [[Ứng]], được [[Liêu Đạo Tông]] cho xây vào năm 1056]]
Thời [[nhà Tùy|Tùy]], Sơn Tây thuộc về Kí châu, có vị thế quan trọng về mặt kinh tế. Tháng 9 năm 617, [[Đường Cao Tổ|Lý Uyên]] từ nơi khởi binh tại [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]] đã vượt qua Hoàng Hà, đến tháng 11 thì công chiếm kinh đô [[Trường An]]. Năm 618, Lý Uyên lập nên [[nhà Đường|triều Đường]], bảy năm sau thì thống nhất toàn Trung Quốc. Triều đình nhà Đường có thái độ trọng thị với Sơn Tây, xem đây là đất "Long Hưng", định Thái Nguyên làm Bắc Đô, kinh tế của Sơn Tây cũng đứng vào hàng đầu tại Trung Quốc. Khi đó, toàn Đại Đường có 18 hồ muối, vùng Hà Đông có 5 hồ, một hồ sản xuất được cả vạn [[hộc]] muối, cung cấp cho kinh thành, được [[Liễu Tông Nguyên]] gọi là "quốc chi đại bảo". Thời Đường, xuất hiện nhiều danh nhân là người Sơn Tây, như [[Tiết Nhân Quý]], [[Võ Tắc Thiên]], [[Địch Nhân Kiệt]]. Trong thời Tùy Đường, Phật giáo hưng thịnh, [[Ngũ Đài sơn]] tại Hãn châu từ thời gian đó đã là một thánh địa của [[Phật giáo Trung Quốc]].
 
Đến thời [[Ngũ Đại Thập Quốc]], [[Lý Tồn Úc]], [[Thạch Kính Đường]] và [[Lưu Trí Viễn]] lần lượt thành lập các triều đại [[Hậu Đường]], [[Hậu Tấn]], [[Hậu Hán]], Thái Nguyên khi đó là một nơi trọng yếu. Em trai của Lưu Trí Viễn là [[Lưu Mân]] đã lập ra nước [[Bắc Hán]] tại bắc bộ và trung bộ Sơn Tây, nước này nằm kẹp giữa [[Hậu Chu]] về phía nam và [[nhà Liêu|Đại Liêu]] của người [[Khiết Đan]] ở phía bắc, được Liêu bảo hộ.
 
NướcSau khi [[nhà Tống|triều Tống]] được thành lập, nước Bắc Hán ỷ thế có người Khiết Đan chống lưng ở phương Bắc, tiến hành đối kháng với [[nhà Tống|triều Tống]]. Năm 979, [[Tống Thái Tông]] Triệu Khuông Nghĩa thống lĩnh đại quân diệt nước Bắc Hán, phóng hỏa thiêu hủy thành Tấn Dương. Năm 982, triều Tống phái đại tướng [[Phan Mỹ]] (潘美) xây thành mới tại khu vực Thái Nguyên ngày nay. Đầu thời Bắc Tống, Sơn Tây thuộc Hà Đông lộ, lại khôi phục cảnh phồn vinh. Thái Nguyên sản xuất ra gương đồng và kéo đồng, được xuất đi tiêu thụ ở các địa phương khác. Sau thời [[Tống Chân Tông]], tại Sơn Tây người ta cũng bắt đầu sử dụng [[than đá]] làm nhiên liệu.
 
Sau [[sự biến Tĩnh Khang]] năm 1125-1127, Sơn Tây chuyển sang thuộc quyền cai quản của [[nhà Kim|triều Kim]], quân Kim đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế phương Bắc Trung Quốc. Do Sơn Tây có [[Thái Hành Sơn]] làm chướng ngại tự nhiên, khói lửa chiến tranh gây cho Sơn Tây thiệt hại nhỏ hơn các địa phương khác. Kinh tế và văn hóa Sơn Tây phát triển trong thời Đại Định chi trị dưới sự cai trị của [[Kim Thế Tông]] và thời Minh Xương chi trị dưới sự cai trị của [[Kim Chương Tông]]. Bình Dương phủ (nay là Lâm Phần) trở thành trung tâm sản xuất giấy của Kim Quốc.
Hàng 83 ⟶ 82:
Trong [[Cách mạng Tân Hợi]], quân phiệt [[Diêm Tích Sơn]] tại Thiểm Tây đã chỉ huy lực lượng cách mạng địa phương đánh đuổi quân Thanh khỏi tỉnh, rồi tuyên bố độc lập khỏi triều Thanh. Diêm Tích Sơn sau đó được chính phủ [[Trung Hoa Dân Quốc]] bổ nhiệm chức Sơn Tây đô đốc, ông ủng hộ [[Viên Thế Khải]] xưng đế, vì thế được phong làm "nhất đẳng [[hầu tước|hầu]]". Năm 1917, không lâu sau khi Viên Thế Khải chết, Diêm Tích Sơn củng cố quyền thống trị Sơn Tây. Cho tới năm 1911, Sơn Tây là một trong những tỉnh nghèo nhất Trung Hoa. Diêm Tích Sơn tin rằng, nếu không hiện đại hóa kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng, Sơn Tây sẽ không chống nổi các quân phiệt từ các nơi khác.
 
Ngày 18 tháng 12, năm 1931, một nhóm sinh viên tại Thái Nguyên tập hợp phản đối chính sách nhân nhượng [[Nhật Bản]] của chính phủ Nam Kinh. Cuộc biểu tình trở nên bạo lực đến nỗi cảnh sát [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Quốc dân đảng]] đã nổ súng vào đám đông. Sự kiện "Thảm sát 18/12" gây ra một làn sóng giận dữ, tạo điều kiện cho các thuộc hạ của Diêm Tích Sơn thừa cơ trục xuất các viên chức Quốc dân đảng khỏi tỉnh, viện cớ là để đảm bảo an ninh. Sau vụ này, tổ chức Quốc dân đảng tại Sơn Tây chỉ còn trên danh nghĩa, trung thành với Diêm Tích Sơn còn hơn cả với [[Tưởng Giới Thạch]].<ref>{{chú thích sách|author=Gillin, Donald G.|title=Warlord: Yen Hsi-shan in Shansi Province 1911-1949|year=1967|publisher=Princeton University Press|location=Princeton, New Jersey|pages=122-123}}</ref> Năm 1934, Tưởng Giới Thạch đi máy bay đến Thái Nguyên, tại đó ông ta ca ngợi chính quyền của Diêm Tích Sơn có công giúp đỡ, ủng hộ Chính phủ Nam Kinh, trên thực tế là thừa nhận quyền thống trị Sơn Tây của Diêm Tích Sơn.
 
Quan hệ [[tài chính]] giữa Sơn Tây và chính phủ trung ương rất phức tạp. Diêm Tích Sơn đã tạo ra được một tổ hợp [[công nghiệp nặng]] xung quanh Thái Nguyên, nhưng không công khai ra bên ngoài Sơn Tây, có lẽ là để đánh lừa Tưởng Giới Thạch. Dù đạt được những thành công nhất định trong công cuộc hiện đại hóa nền công nghiệp Sơn Tây, Diêm Tích Sơn vẫn liên tiếp yêu cầu chính phủ trung ương hỗ trợ tài chính để dùng mở rộng đường sắt và những việc khác, nhưng đều bị từ chối.<ref>{{chú thích sách|author=Gillin, Donald G.|title=Warlord: Yen Hsi-shan in Shansi Province 1911-1949|year=1967|publisher=Princeton University Press|location=Princeton, New Jersey|pages=193}}</ref>
 
Năm 1916, ít nhất 10% trong số 11 triệu dân Sơn Tây nghiện [[thuốc phiện]], điều này khiến Diêm Tích Sơn quyết định phải tiêu diệt nạn thuốc phiện sau khi lên nắm quyền. Trước tiên, Diêm Tích Sơn xử lý bọn buôn thuốc phiện và những người nghiện nặng, đưa những người nghiện nặng vào [[nhà tù|]] và đưa họ và [[gia đình]] họ ra trước công chúng để làm nhục. Rất nhiều người bị kết án đã chết vì bị cắt cơn đột ngột. Sau năm 1922, một phần do sự phản đối của công chúng, Diêm Tích Sơn từ bỏ chính sách trừng phạt, chuyển sang chính sách phục hồi nhân phẩm cho người nghiện, thông qua gia đình họ mà buộc họ phải bỏ thuốc phiện, và xây dựng các trại cai nghiện cho mục đích này.<ref>{{chú thích sách|author=Gillin, Donald G.|title=Warlord: Yen Hsi-shan in Shansi Province 1911-1949|year=1967|publisher=Princeton University Press|location=Princeton, New Jersey|pages=38-40}}</ref>
 
Tháng 2 năm 1936, dưới sự chỉ huy của [[Lưu Chí Đan]] và [[Từ Hải Đông]], 34.000 quân cộngCộng sản đã xâm nhập vào tây nam Sơn Tây. Những người Cộng sản có được sự ủng hộ phổ biến của người dân, và, mặc dù họ ít hơn và được vũ trang kém, song đã thành công trong việc chiếm một phần ba phía nam của Sơn Tây trong vòng chưa đầy một tháng. Những người Cộng sản ở Sơn Tây đã hợp tác thông tin với các nông dân địa phương để né tránh và dễ dàng xác định vị trí các lực lượng của Diêm Tích Sơn. Khi quân chính phủ Trung ương được phái đến chi viện, quân Cộng sản buộc phải rút khỏi Sơn Tây, sau đó lực lượng Quốc Dân đảng vẫn còn ở Sơn Tây thể hiện sự thù địch với quyền cai trị của Diêm Tích Sơn, nhưng không ảnh hưởng đến quyền cai quản của ông.<ref>{{chú thích sách|author=Gillin, Donald G.|title=Warlord: Yen Hsi-shan in Shansi Province 1911-1949|year=1967|publisher=Princeton University Press|location=Princeton, New Jersey|pages=220-221}}</ref>
 
Năm 1936, quân Nhật và lực lượng [[Mông Cương]] đã xâm lược khu vực do Diêm Tích Sơn kiểm soát, gián điệp Nhật Bản đã phá hủy một kho hậu cần lớn ở [[Đại Đồng]] và thực hiện các hành vi phá hoại khác. Trong [[chiến tranh Trung-Nhật]] (1937-1935), hầu hết Sơn Tây đã nhanh chóng bị người Nhật tàn phá. Sau khi để mất thủ phủ Thái Nguyên, Diêm Tích Sơn di chuyển trụ sở của mình đến một nơi ẩn náu biệt lập ở Lâm Phần, chống lại nỗ lực kiểm soát hoàn toàn Sơn Tây của Nhật Bản. Sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], quân của Diêm Tích Sơn (bao gồm cả quân Nhật cũ) đã tổ chức chống lại những người Cộng sản trong cuộc [[nội chiến Trung Quốc]] kéo dài trong bốn năm. Đến tháng 4 năm 1949, chính phủ Quốc dân để mất quyền kiểm soát miền Bắc Trung Quốc, quân cộng sản bao vây lực lượng của Diêm Tích Sơn. Sau chiến thắng trong [[chiến dịch Thái Nguyên]], lực lượng cộng sản đã hoàn toàn kiểm soát Sơn Tây.
 
Sau khi [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] được thành lập, Sơn Tây nằm trong các kế hoạch "Tiểu [[tam tuyến kiến thiết]]" và "Chi viện nội địa", kinh tế xã hội vì thế từng có thời điểm đã phát triển một cách nhanh chóng. Trong thời kỳ [[Cách mạng Văn hóa]], tại Sơn Tây đã tiến hành xây dựng [[chủ nghĩa tập thể]], trong đó nổi bật là mô hình kinh tế tập thể chủ nghĩa tại thôn [[Đại Trại]], [[Mao Trạch Đông]] từng ban ra lời hiệu triệu "[[Nông nghiệp học Đại Trại]]". Sau [[Cải cách kinh tế Trung Quốc|cải cách kinh tế]], kinh tế Sơn Tây chuyển từ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên than đá phong phú dưới lòng đất sang dùng than đá để phát triển điện lực, than hóa học. Bước sang thế kỷ 21, Sơn Tây đang nỗ lực tiến hành chuyển đổi mô hình kinh tế từ tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên sang phát triển công nghệ cao, các ngành công nghiệp có giá trị cao, và đã đạt được một số thành công.
 
== Địa lý ==
Hàng 101 ⟶ 100:
Sơn Tây nằm ở trung bộ lưu vực [[Hoàng Hà]], ở phía tây của [[Thái Hành Sơn]], có tọa độ giới hạn từ 34°34′-40°43′ vĩ Bắc và 110°14′—114°33′ kinh Đông. Lãnh thổ Sơn Tây có hình bình hành kéo dài từ đông bắc đến tây nam, với diện tích là khoảng 156.700 km², chiếm 1,6% tổng diện tích Trung Quốc, dài khoảng 682 km theo chiều bắc-nam, rộng khoảng 385 km theo chiều đông-tây. Thái Hành Sơn ngăn cách Sơn Tây với [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]] ở phía đông; ở phía tây thì [[Hoàng Hà]] ngăn cách Sơn Tây với Thiểm Tây; nam và đông nam của Sơn Tây là [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]]; phía bắc Sơn Tây là khu tự trị [[Nội Mông]].
 
Địa thế điển hình của Sơn Tây là lớp đất [[hoàng thổ]] bao trùm các cao nguyên sơn địa, bị giới hạn bởi Ngũ Đài Sơn và [[Hằng Sơn]] ở phía bắc, [[Thái Hành Sơn]] ở phía đông, [[Lã Lương Sơn]] ở phía tây. Địa thế của Sơn Tây nói chung là cao ở đông bắc, thấp ở tây nam. Vùng cao nguyên trong tỉnh nhấp nhô chứ không bằng phẳng, có các thung lũng sông dọc ngang. Địa mạo của Sơn Tây phức tạp và đa dạng: núi non, gò đồi, đài địa, bình nguyên, nhìn chung là núi nhiều sông ít, trong đó vùng núi non và gò đồi chiếm 80,1% diện tích của tỉnh, vùng đồng bằng và thung lũng sông chiếm 19.,9% diện tích của tỉnh.<ref name=stg>{{chú thích web|title=山西|url=http://www.gov.cn/test/2012-04/06/content_2107687.htm|publisher=中央政府门户网站|accessdate=2013-01-27}}</ref> Phần lớn Thiểm Tây có [[cao độ]] trên 1.500 mét so với mực nước biển, điểm cao nhất là đỉnh chính Hiệp Đầu của [[Ngũ Đài sơn|Ngũ Đài Sơn]] với cao độ 3061,1 mét trên mực nước biển, cũng là đỉnh cao nhất vùng [[Hoa Bắc]]. Bồn địa thung lũng lớn nhất Sơn Tây là [[bồn địa Thái Nguyên]] kéo dài 160 km. Ở phía bắc Thái Nguyên có ba bồn địa riêng biệt, chúng đều là các khu vực canh tác, bồn địa Đại Đồng nằm xa hơn về phía bắc.
 
Sơn Tây có trên 1.000 sông lớn nhỏ, thuộc hai hệ thống sông lớn là [[Hoàng Hà]] và [[Hải Hà (sông)|Hải Hà]]. Trong đó, con sông lớn thứ hai tại Trung Quốc- Hoàng Hà chảy từ bắc xuống nam dọc theo một hẻm núi ở ranh giới phía tây giữa Sơn Tây và Thiểm Tây, ở [[Phong Lăng Độ]] (風陵渡), Hoàng Hà chuyển hướng tây-đông và tạo thành một đoạn ranh giới giữa Sơn Tây và Hà Nam, tổng chiều dài Hoàng Hà tại Sơn Tây là 968 km. Ngoài Hoàng Hà ra, Sơn Tây có 5 sông có diện tích lưu vực trên 10.000 km², có 48 sông có diện tích lưu vực từ 1.000 km² đến 10.000 km², có 397 sông có diện tích lưu vực từ 100 km² đến 1.000 km².<ref name=stg/> [[Sông Phần|Phần Hà]] là sông lớn nhất trong nội bộ Sơn Tây, chảy từ đông bắc xuống tây nam, chiều dài dòng chính là 694 km. Các [[chi lưu]] lớn của Hoàng Hà ở Sơn Tây bao gồm: Phần Hà, [[Thấm Hà]], [[Đan Hà]], [[sông Tốc Thủy|Tốc Thủy Hà]], [[sông Tam Xuyên|Tam Xuyên Hà]]. Các chi lưu lớn của hệ thống Hải Hà trên địa bàn Sơn Tây là: [[sông Tang Can|Tang Can Hà]], [[Sông Hô Đà|Hô Đà Hà]], [[Chương Hà (Sơn Tây)|Trạc Chương Hà]], [[Chương Hà (Sơn Tây)|Thanh Chương Hà]]. Diện tích lưu vực Hoàng Hà tại Sơn Tây là 97.138 km², chiếm 62% diện tích toàn tỉnh; diện tích lưu vực Hải Hà tại Sơn Tây là 59.133 km², chiếm 38% diện tích toàn tỉnh.
Hàng 114 ⟶ 113:
Tỷ lệ che phủ rừng của Sơn Tây đạt 18,03%,<ref name=stg/> rừng chiếm khoảng một phần năm diện tích của tỉnh.<ref name=eb1/> Tuy nhiên, tỉnh còn lại khá ít các khu rừng tự nhiên, chúng nằm ở những vùng đất nhỏ biệt lập tại sườn núi hướng về phía bắc. Tại [[Trung Điều Sơn]] (中条山) ở xa về góc đông nam của tỉnh, gần ranh rới với tỉnh Hà Nam, có một dải rừng nguyên sinh lớn. Sơn Tây cũng tiến hành trồng rừng trên khắp địa bàn, bao gồm cả việc trồng cây ở sát ngay các khu đất canh tác và trên các sườn núi.
 
Việc phá hủy các khu rừng bannguyên đầusinh trong thời cổ đại đã loại bỏ hầu hết các loại động vật hoang dã tại Sơn Tây. Hiện nay, các loài động vật hoang dã ở Sơn Tây chủ yếu là loài sống trên cạn, đã biết được 439 loại (kể cả các loài đã tuyệt chủng). Trong đó, tỉnh có 71 loài động vật quý hữuhiếm được bảo hộ trọng điểm cấp quốc gia, trong đó có 17 loại được bảo hộ cấp 1: [[Gà lôi tai nâu]] (''Crossoptilon mantchuricum''), [[đại bàng vàng]] (''Aquila chrysaetos''), [[cò quăm mào Nhật Bản]] (''Nipponia nippon''), [[hạc trắng]] (''Ciconia ciconia''), [[hạc đen]] (''Ciconia nigra''), [[đại bàng biển đuôi trắng]] (''Haliaeetus leucoryphus''), [[đại bàng đuôi trắng]] (''Haliaeetus albicilla''), [[sếu Nhật Bản]] (''Grus japonensis''), [[ô tác lớn]] (''Otis tarda''), [[chim diều râu]] (''Gypaetus barbatus''), ''[[Ichthyaetus relictus]]'', [[hổ]], [[báo hoa mai]], [[hươu xạ Siberi]] (''Moschus moschiferus''), [[hươu xạ lùn]] (''Moschus berezovskii''). Các loài động vật hoang dã được bảo hộ trọng điểm cấp tỉnh có [[diệc xám]] (''Ardea cinerea''), [[gõ kiến nhỏ đầu xám]] (''Picoides canicapillus'') và 27 loại khác.<ref name=stg/>
 
== Nhân khẩu ==
Theo điều tra mẫu, cuối năm 2011, tỉnh Sơn Tây có 35.933.000 người, tăng 192.000 người so với năm trước. Trong năm này, tỷ lệ sinh của Sơn Tây là 10,47‰, còn tỷ lệ tử vong là 5,61‰, tỷ số giới tính khi sinh là 113,14 nam/100 mữ.<ref name=stg/> Hầu hết cư dân Sơn Tây là [[người Hán]], cuối năm 2011 họ chiếm tới 99,7% tổng số dân cư.
 
Phần lớn người Hán tại Sơn Tây nói [[tiếng Tấn]], riêng cư dân hai địa cấp thị Lâm Phần và Vận Thành ở hạ du Phần Hà, tại tây nam của Sơn Tây, nói phương ngữ Phần Hà của [[Quan thoại Trung Nguyên]]. Tiếng Tấn được một số người phân là một nhánh của [[Quan thoại]], song cũng có người xem nó là một nhánh riêng biệt của [[tiếng Hán]]. Trên địa phận Sơn Tây, phương ngữ Tịnh Châu của tiếng Tấn được nói tại trung bộ, bao gồm Thái Nguyên và [[Tấn Trung]]; phương ngữ Lữ Lương được nói tại phía tây của trung bộ, bao gồm Lữ Lương và 5 huyện tây bắc của Lâm Phần; phương ngữ Thượng Đản được nói tại đông nam bộ ở chân núi phía tây Thái Hành Sơn, bao gồm Trường Trị và Tấn Thành; phương ngữ Ngũ Đài được nói tại bắc bộ Sơn Tây, bao gồm [[Hãn Châu]]; phương ngữ Đại Đồng được nói tại khu vực Đại Đồng.<ref>{{chú thích sách|author=Kurpaska, Maria|title=Chinese Language(s): A Look Through the Prism of The Great Dictionary of Modern Chinese Dialects|year=2010|publisher=Walter de Gruyter|isbn=978-3-11-021914-2|pages=68}}</ref>
 
Các cộng đồng thiểu số tại Sơn Tây bao gồm người Hồi ở khu vực Thái Nguyên-[[Du Thứ]], và một số [[người Mông Cổ (Trung Quốc)|người Mông Cổ]] và [[người Mãn]] sinh sống quanh Đại Đồng. Cư dân Sơn Tây tập trung đông đúc tại bồn địa Thái Nguyên, khu vực đông nam quanh Trường Trị và thung lũng Phần Hà.
Hàng 235 ⟶ 234:
== Kinh tế ==
[[Tập tin:Shuozhou coal power plant.JPG|nhỏ|phải|Nhà máy nhiệt điện dùng than đá tại Sóc Châu]]
Do xảy ra hiện tượng [[xói mòn]] trên phạm vi rộng, chỉ một phần ba diện tích Sơn Tây là đất canh tác. Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã có những nỗ lực nhằm bảo toàn đất và nước trên quy mô rộng lớn, tạo ra loại ruộng bậc thang, trồng cây gây rừng, đào kênh mương thủy lợi, đắp bờ các mảnh đất canh tác, khử mặn, và cải tạo đất ven sông. Ở cực bắc của tỉnh, mùa sinh trưởng của cây trồng rất ngắn chỉ với 120 ngày, mùa đông lạnh và kéo dài khiến cho chỉ canh tác được một vụ kê có bông, lùa mì xuân, yến mạch trần, khoai tây và vừng mỗi năm. Ở phần còn lại của tỉnh, ngoại trừ các khu vực đồi núi, mùa sinh trưởng kéo dài hơn (210 ngày), cho phép canh tác ba vụ hai năm hoặc hai vụ một năm. Một số [[thuốc lá (cây)|thuốc lá]] và [[lạc]] cũng như [[cây ăn quả]] được trồng tại các vùng bồn địa trung bộ và đồng bằng ven Hoàng Hà.<ref name=eb2>{{chú thích web|last=Boxer|first=Baruch|title=Shanxi|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/Shanxi/71112/People|publisher=Encyclopædia Britannica|accessdate=2013-01-29}}</ref> Năm 2011, đầu tư cho "tam nông" tại Sơn Tây đạt 65 tỷ NDT, tổng sản lượng lương thực đạt 11.930.000 tấn.<ref name=stg/>
 
Trên địa bàn Sơn Tây đã phát hiện được hơn 120 loại [[khoáng sản]], trong đó đã xác minh được trữ lượng của 70 loại. Vào năm 2011, trữ lượng [[than đá]] của Sơn Tây đạt 267,379 tỷ tấn, chiếm 20% tổng trữ lượng than đá của Trung Quốc. Các chủng loại khoáng sản có trữ lượng đứng vào hàng đầu toàn quốc của Sơn Tây là: khí vỉa than, [[bô xít]], [[perlite]], [[gali]], [[zeolit]], [[rutile]], muối magiê, [[mirabilite]], [[feldspat]] [[kali]], [[ilmenite]], [[đá vôi]], [[feldspat]], [[thạch cao]], [[coban]], [[đồng]] và các loại khác.<ref name=stg/>
 
Theo hạch toán sơ bộ, tổng [[GDP]] của Sơn Tây vào năm 2011 là 1.110,02 tỷ NDT, tăng trưởng 13% so với năm trước. Trong đó, [[khu vực một của nền kinh tế|khu vực một]] đạt giá trị 64,14 tỷ NDT, [[khu vực hai của nền kinh tế|khu vực hai]] đạt giá trị 657,78 tỷ NDT, [[khu vực ba của nền kinh tế|khu vực ba]] đạt giá trị 388.,09 tỉ NDT. Trong năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Sơn Tây là 14,76 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 9,33 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 5,43 tỷ USD.<ref name=stg/>
 
Ngành công nghiệp của Sơn Tây dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên than đá phong phú, tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp nặng tại Thái Nguyên-Tấn Trung. Ngành gang thép sản xuất ra thép thỏi, gang thỏi, và các sản phẩm thép hoàn chỉnh. Ngoài ra Sơn Tây còn có các ngành cơ cấu hạng nặng, hóa chất công nghiệp, phân bón hóa học, như xi măng, giấy, dệt may, xay bột, và rượu. Các trung tâm khai mỏ và gang thép khác bao gồm Dương Tuyền, Trường Trị, Đại Đồng và Lâm Phần. Từ thập niên 1980, Sơn Tây cũng phát triển mạnh mẽ các ngành điện tử, dệt may, chế biến thực phẩm, nhựa gia dụng. Các sản phẩm đặc sản của địa phương phải kể đến như [[Phần tửu]] (汾酒), một loại rượu mùi làm từ [[chi Lúa miến|lúa miến]] của thôn HạnHạnh Hoa.<ref name=eb2/>
 
== Văn hóa ==
Hàng 252 ⟶ 251:
== Du lịch ==
[[Tập tin:Pingyao marketstreet.jpg|nhỏ|phải|Phố chợ Bình Dao]]
* Thành cổ [[Bình Dao]] là một [[di sản thế giới]] nằm ở huyện cùng tên thuộc Tấn Trung, cách thủ phủ [[Thái Nguyên]] 80km. Nơi đây từng là một trung tâm táitài chính lớn của Trung Quốc, nổi danh với việc còn bảo tồn được nhiều đặc điểm văn hóa, kiến trúc và lối sống Hán từ thời Minh-Thanh.
* [[Hang đá Vân Cương]], hang đá nhân tạo nông nằm gần Đại Đồng. Có trên 50.000 hình và tượng Phật và Bồ Tát được trạm khắc bên trong các hang động, cao từ 4 cm đến 7 mét và cungcũng là một [[di sản thế giới]].
* [[Ngũ Đài Sơn]] có điểm cao nhất của Sơn Tây. Nó được biết đến như là nơi cư trú của [[Văn-thù-sư-lợi|Văn Thù]] Bồ Tát, và vì théthế cungcũng là một điểm hành hưởnghương Phật giáo lớn, với nhiều chùa và cảnh đẹp tự nhiên. Các điểm đáng chú ý bao gồm các chính điện làm bằng gỗ có niên đại từ thời Đường của [[chùa Nam Thiền]] và [[chùa Phật Quang]], cũng như Đại Bạch tháp tại [[chùa Tháp Viện]] được xây dựng từ thời Minh.
* [[Hằng Sơn]], tại Hồn Nguyên, là một trong "[[Ngũ Lạc]]" của Trung Quốc, và cũng là một địa điểm tâm linh chính của [[Đạo giáo]]. Không xa Hằng Sơn là [[của Huyền Không]] nằm trên vách đá và đađã tồn tại trong suốt 1400 bất chấp các trận [[động đất]] đã từng xảy ra trong khikhu vực.
* [[Phật Cung tự Thích Ca tháp]], nằm ở huyện Ứng, là một ngôi tháp được âyxây dựng vào năm 1056 dưới thời Liêu. Tháp có hình bát giác với chín tầng (từ ngoài có thể nhận thấy là có năm tầng), và cao 67&nbsp;m (220&nbsp;ft), là tháp gỗ cao nhất trên thế giới. Đây cũng là tháp hoàn toàn bằng gỗ cổ nhất còn tồn tại ở Trung Quốc.
* [[Thác Hồ Khẩu]] nằm trên dòng chính của [[Hoàng Hà]] trên ranh giới giữa Sơn Tây và Thiểm Tây. Với độ cao 50 mét, nó là tháp cao thứ hai tại Trung Quốc.
* [[Đại Trại]] là một thôn tại huyện [[Tích Dương]]. Thôn nằm trên điạđịa hình đồi núi, khó khăn, song là một điểm linh thiêng trong [[Cách mạng Văn hóa]], khi nó trở thành gương mẫu cho toàn thể dân tộc về sức mạnh của [[giai cấp vô sản]], đặc biệt là [[nông dân]].
*[[Nương Tử Quan]] nằm ở đông bắc của huyện [[Bình Định, Dương Tuyền|Bình Định]], thuộc ranh giới giữa Sơn Tây và Hà Bắc, là một quan ải trứ danh của Vạn Lý Trường Thành, thôn Nương Tử Quan là một thôn cổ nổi tiếng.
* Sơn Tây cũng từng là vùng căn cứ địa cách mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, các di tích nổi tiếng là tổng bộ Bát lộ quân, công xưởng binh khí Bát lộ quân động Hoàng Nhai ở [[Lê Thành]], nhà kỉ niệm [[Lưu Hồ Lan]] ở [[Văn Thủy, Lữ Lương|Văn Thủy]].
Hàng 266 ⟶ 265:
Sơn Tây có các sân bay dân dụng: [[sân bay Vương Thôn Trường Trị]], [[sân bay Vân Cương Đại Đồng]], [[sân bay Kiều Lý Lâm Phần]], [[sân bay Lã Lương]], [[sân bay quốc tế Vũ Túc Thái Nguyên]], [[sân bay Ngũ Đài Sơn]], [[sân bay Quan Công Vận Thành]]. Trong năm 2011, các sân bay dân dụng của Sơn Tây đã khởi hành 76.300 chuyến bay, vận chuyển được 7.260.000 lượt khách và 44.500 tấn hàng hóa. Sân bay quốc tế Vũ Túc Thái Nguyên có 85 đường bay nối đến 54 thành phố.<ref name=stg/>
 
Sơn Tây phụ thuộc nhiều vào vận tải [[đường sắt]], loại hình vận tải này đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa công nghiệp và thực phẩm trong và liên tỉnh. Tuyến đường sắt dài nhất của Sơn Tây là [[đường sắt Đồng-Bồ]], chạy từ Đại Đồng ở cực bắc xuống đến [[Phong Lăng Độ]] ở tây nam (giao giới giữa Sơn Tây-Thiểm Tây-Hà Nam). Có nhiều tuyến đường sắt khác chạy ngang qua Sơn Tây, quan trọng nhất là tuyến [[đường sắt Kinh-Bao]], ngoài ra còn có nhiều tuyến nhánh được xây dựng trong thời gian gần đây để kết nối các tuyến đường sắt chính với các điểm công nghiệp và khai mỏ. Năm 2011, tổng lý trình đường sắt hoạt động của Sơn Tây là 3773,7 km.
 
Sơn Tây đã mở rộng các tuyến đường cao tốc, đường dài và đường mọi thời tiết, đặc biệt là tại hay gần các đô thị lớn và các khu khai mỏ, nhiều tuyến đường đóng vai trò là tuyến trung chuyển đến mạng lưới đường sắt. Năm 2011, tổng lý trình công lộ thông xe của Sơn Tây là 135.000 km, trong đó có 4.005 km công lộ cao tốc. Từ Thái Nguyên đến các địa cấp thị khác chỉ mất có ba giờ nếu đi theo đường cao tốc, 82% số huyện/thị/khu có đường cao tốc chạy qua. Năm 2011, hệ thống công lộ của Sơn Tây đã thực hiện vận chuyển 652 triệu tấn hàng hóa và 329 triệu lượt người.<ref name=stg/>
 
Các thuyền đáy bằng nhỏ có thể thông hành trên Phần Hà, xa đến Lâm Phần về phía bắc. Tuy nhiên, việc vận chuỷenchuyển hàng hóa trên Phần Hà, cũng như đoạn chảy theo hướng bắc-nam của Hoàng Hà, là không đáng kể.
 
== Các trường đại học và cao đẳng ==