Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Maximilian Kolbe”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
JackieBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.2) (Bot: Thêm eu:Maximiliano Kolbe
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng; sửa cách trình bày
Dòng 15:
| chân phước bởi = [[Giáo hoàng Phaolô VI]]
| ngày hiển thánh = [[10 tháng 10]], [[1982]]
| nơi hiển thánh = tại [[Roma|Rôma]]
| hiển thánh bởi = [[Giáo hoàng Gioan Phaolô II]]
| đền chính =
Dòng 29:
| tác phẩm =
}}
'''Maximilian Maria Kolbe''' ([[tiếng Ba Lan]]: ''Maksymilian Maria Kolbe'', [[8 tháng 1]], [[1894]] – [[14 tháng 8]], 1941) là một tu sĩ [[Phan Sinh|Dòng Phanxicô]] ở [[Ba Lan]], người đã tự nguyện [[chết]] thay cho một người khác tại [[trại tập trung Auschwitz]] trong thời gian [[Đức]] chiếm đóng [[Ba Lan]] hồi [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Đệ Nhị Thế chiến]].
 
Ông được [[Giáo hội Công giáo Rôma]] phong [[thánh (CôngKitô giáo)|thánh]] vào ngày [[10 tháng 10]] năm [[1982]] bởi [[Giáo hoàng Gioan Phaolô II]]. Ông được tôn làm thánh quan thầy của những người tù nhân (đặc biệt là [[tù nhân chính trị]]), người cai nghiện, [[gia đình]], [[nhà báo]] và các phong trào phò sự sống.
== Tiểu sử ==
Maximilian Kolbe sinh ngày [[7 tháng 1]] năm [[1894]] tại [[Zdunska Wola]], [[Ba Lan]] (thời điểm đó thuộc [[Đế quốc Nga]]) với tên khai sinh là Raymond Kolbe. Cha ông là [[người Đức]], còn mẹ là [[người Ba Lan]]. Thời thơ ấu của Kolbe chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi [[Maria|Đức Trinh Nữ Maria]] mà sau này ông kể lại rằng:
 
:Đêm đó, tôi nài xin Đức Mẹ cho tôi được trở nên đứa con ngoan. Đức Mẹ hiện ra mang theo hai triều thiên sáng chói, một màu trắng và một màu đỏ. Thế rồi Đức Mẹ hỏi tôi thích chọn triều thiên nào. Màu trắng nghĩa là tôi sẽ được trở nên trong trắng và màu đỏ thì tôi sẽ trở thành một vị tử đạo. Tôi nói rằng tôi thích cả hai<ref>Saints on Earth: A Biographical Companion to Common Worship, John H. Darch, Stuart K. Burns, Church House Publishing, 2004.</ref>
 
Năm [[1907]], Kolbe và anh trai là Francis quyết định gia nhập Dòng Phanxicô. Họ vượt biên trái phép qua biên giới giữa [[Đế quốc Nga|Nga]] và [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]] rồi gia nhập tu viện dòng Phanxicô ở [[Lviv|Lwów]]. Ba năm sau, Kolbe đã được nhập vào nhà tập. Đến năm [[1911]], ông khấn tạm với tên là Maximilian.
 
Năm [[1912]], ông đã được gửi đến [[Kraków]] và cũng trong năm này, ông đến [[Roma]] để nghiên cứu [[triết học]], [[thần học]], [[toán học]] và [[vật lý học|vật lý]]. Tại Roma, ông khấn trọn vào năm [[1914]] với tên là Maximilian Maria để biểu thị lòng sùng kính của ông với Đức Trinh Nữ Maria. Ông đậu bằng [[tiến sĩ]] triết học vào năm [[1915]] tại [[Đại học Giáo hoàng Gregorian]] và tiến sĩ thần học vào năm [[1919]] tại [[Đại học Giáo hoàng Thánh Bonaventura]]. Trong thời gian tu học ở Roma, ông đã chứng kiến các cuộc [[biểu tình]] kịch liệt chống lại [[Giáo hoàng Piô X]] và [[Giáo hoàng Biển Đức XV]] tại Rome do [[Hội Tam Điểm]] tổ chức. Để đối phó với làn sóng này, ông đã thành lập [[Đạo binh Đức Mẹ Vô Nhiễm]] với mong muốn qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ, những người tội lỗi và những ai chống phá Giáo hội Công giáo trở về đường ngay nẻo chính.
 
Kolbe đã cho phát hành tờ ''Hiệp sĩ của Ðức Mẹ Vô Nhiễm'' để rao giảng [[Sách Phúc Âm|Phúc Âm]]. Ông cũng sử dụng [[radio]] để truyền bá đức tin [[Công giáo]] và lên tiếng chống lại sự tàn bạo của chế độ [[Quốc xã]].
 
Năm [[1918]], Kolbe đã được thụ phong [[linh mục]]. Một năm sau, ông hồi hương Ba Lan vì nước này mới được độc lập. Tại đây, ông rất tích cực thúc đẩy việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, sáng lập và giám sát các ''Thành phố của Đức Mẹ Vô Nhiễm'' (còn gọi là ''Niepokalanów'') gần thủ đô [[Warszawa|Warsaw]], một chủng viện, một trạm phát thanh, và một số tổ chức in ấn khác. Năm 1927, tu viện ở Niepokalanów đã trở thành một trung tâm xuất bản lớn.
 
Năm 1930, Kolbe rời Ba Lan để đến [[Nhật Bản]] và ở đó sáu năm. Lúc này, Kolbe bị buộc tội theo chủ nghĩa [[chủ nghĩa bài Do Thái|bài Do Thái]]. Tuy nhiên, những người làm việc thân cận với ông đã bác bỏ những cáo buộc đó vì thực ra Kolbe đã che chở cho người tị nạn Do Thái trong chiến tranh. Một nhân chứng kể rằng: "Khi người Do Thái đến xin tôi một mẩu bánh mì, tôi hỏi cha Maximilian rằng tôi cho họ bằng lương tâm được không? và ông trả lời: "Được, đó là điều cần thiết phải làm vì tất cả mọi người đều là anh em của chúng ta".
 
Từ năm [[1930]] đến [[1936]], ông đã thiết lập hàng loạt cơ sở tại [[Nhật Bản]], trong đó có một tu viện ở vùng ngoại ô [[Nagasaki]]. Kolbe cũng cho xây dựng một tu viện trên sườn núi, khi xảy ra [[vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki]], tu viện này đã được cứu thoát và vẫn còn đóng vai trò nổi bật trong Giáo hội Công giáo tại Nhật Bản cho đến ngày nay. Sau đó, ông trở về Ba Lan.
== Trong trại tập trung ==
Năm [[1939]], Ðức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan, thành phố Niepolalanów bị dội bom. Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt vì đã che chở cho [[người Do Thái]], nhưng sau đó chưa đầy ba tháng thì tất cả được trả tự do vào đúng ngày [[Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội]]. Ngày [[17 tháng 2]] năm [[1941]], ông lại bị bắt và giam tại nhà tù [[Pawiak]], sau đó ông được chuyển đến trại tập trung Auschwitz với mã số tù nhân là #16670<ref>[http://www.nguoitinhuu.com/history/saints7.html Người Tín Hữu]</ref>. Cuối tháng 7 năm 1941, có ba tù nhân trốn khỏi trại, khiến phó chỉ huy của [[Schutzstaffel]] bắt 10 người đàn ông chết thay bằng cách bỏ đói trong hầm ngầm để răn đe việc trốn trại. Một trong những người bị chọn có Franciszek Gajowniczek, anh này kêu lên: "Còn vợ tôi! con tôi nữa!". Kolbe động lòng thương và tình nguyện chết thay cho anh này.
 
Trong biệt ngục, Kolbe cử hành [[Thánh lễ]] mỗi ngày và hát [[thánh ca]] với các tù nhân.
Ông động viên rằng họ sẽ sớm được ở với Đức Mẹ Maria trên [[thiên đàng|thiên đường]]. Sau hai [[tuần]] bỏ đói bỏ khát, chỉ còn Kolbe sống sót. Các lính canh muốn nhanh chóng kết liễu đời ông bằng cách tiêm một liều thuốc độc [[phenol]]. Một số nhân chứng kể rằng, khi ấy ông giơ cánh tay trái của mình lên và bình tĩnh chờ đợi mũi tiêm. Thi thể của ông được hỏa táng vào ngày [[15 tháng 8]], nhằm ngày [[Lễ Đức Mẹ Lên Trời]].
 
== Phong thánh ==
[[Tập tin:WestminsterAbbey-Martyrs.jpg|nhỏ|trái|150px|Tượng Kolbe (trái) tại Tu viện Westminster, Luân Đôn]]
Maximilian Kolbe được phong [[chân phước]] bởi [[Giáo hoàng Phaolô VI]] vào năm [[1971]] (nhưng không coi Kolbe là thánh tử đạo) và phong thánh bởi [[Giáo hoàng Gioan Phaolô II]] vào ngày [[10 tháng 10]] năm [[1982]] với sự tham dự của Franciszek Gajowniczek - bạn tù được ông thế mạng. Sau khi phong thánh, giáo hoàng tuyên bố Thánh Maximilian Kolbe là một thánh tử đạo thực sự. Phép lạ có sự chuyển cầu của thánh Maximilian là chữa bệnh lao ruột cho Angela Testoni (1948), chữa bệnh [[vôi hóa động mạch]] cho Francis Ranier (1950). Ông là một trong mười vị tử đạo của [[thế kỷ 20]] đúc tượng và đặt ở cửa tây của [[Tu viện Westminster]], [[Luân Đôn]].
 
== Chú thích ==
<references/>