Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quân Khăn Đỏ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Distinguish|Khởi nghĩa Khăn Vàng|Khởi nghĩa Bạch Liên giáo}}
'''Quân Khăn Đỏ''' (chữ Hán: {{zh|t=紅巾軍|s=红巾军, |v=''Hồng Cân quân''}}) là các lực lượng [[khởi nghĩa nông dân]] cuối [[đời Nguyên]], ban đầu là do các tông giáo dân gian như [[Minh giáo]], [[Di Lặc giáo]], [[Bạch Liên giáo]] kết hợp phát động. Vì họ dựng cờ đỏ, đầu đội khăn đỏ, nên được gọi là quân Khăn Đỏ hay '''Hồng quân'''. Phần lớn các tông giáo này đều thờ Phật, trong quân thường đốt nhang làm lễ, nên còn được gọi là '''Hương quân'''.
 
==Bối cảnh ra đời==
Cuối đời Nguyên, gian thần chuyên quyền, quan lại tham ô, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc. Giáo thủ [[Hàn Sơn Đồng]] ở Vĩnh Niên <ref>Nay là đông nam [[Vĩnh Niên]], Hà Bắc</ref> tích cực truyền giáo, bọn [[Lưu Phúc Thông]] trở thành những tín đồ đầu tiên của ông ta. Bọn họ tuyên truyền “''[[Di Lặc]] giáng sanhsinh, [[Minh Vương]] xuất thế''”, hiệu triệu tín đồ, chờ thời cơ lật đổ nhà Nguyên.
 
Tháng 5 năm Chí ChánhChính thứ 4 (1344), mưa lớn hơn 20 ngày, [[Hoàng Hà]] gây lụt, quận huyện ven sông đều chịu thủy tai, nhân dân vô cùng khốn khổ. Do nước lũ tràn vào [[Vận Hà]], uy hiếp Diêm Trường của Lưỡng Tào, ảnh hưởng đến thu nhập của [[Quốc khố]], vào tháng 4 năm thứ 11 (1351), [[Nguyên Thuận đế]] nhiệm mệnh [[Giả Lỗ]] làm Công bộ thượng thư, Tổng trị Hà phòng sứ, phát 15 vạn dân phu ở 13 lộ Biện Lương <ref>Nay là [[Khai Phong]], [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]]</ref>, Đại Danh <ref>Nay là phía bắc [[Đại Danh]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]]</ref>,… cùng 2 vạn quân đội ở 18 địa phương như Lư Châu <ref>Nay là [[Hợp Phì]], [[An Huy]]</ref>…, tháo nước trị sông.
 
Bọn Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông cho rằng đấy là thời cơ, đầu tháng 5, tụ tập 30003.000 người ở thượng du sông Toánh thuộc Toánh Châu, giết ''ngựa trắng – trâu đen'', thề nguyền trời đất, chuẩn bị khởi nghĩa. Tuyên xưng ''Hàn Sơn Đồng là cháu 8 đời của [[Tống Huy Tông]], nên làm chủ Trung Quốc; Lưu Phúc Thông là hậu duệ của tướng [[nhà Nam Tống]] là [[Lưu Quang Thế]], nên giúp rập''.
 
==Quá trình hoạt động==
Hàng 16 ⟶ 17:
 
====Thoát Thoát bị hại====
Tháng 3 nhuận, triều đình trước sau phái bọn [[Tứ Xuyên]] hành tỉnh bình chương [[Giảo Trụ]], Tứ Xuyên hành tỉnh tham chánhchính [[Đáp Thất Bát Đô Lỗ]], các vương [[Diệc Liên Chân Ban]], [[Ái Nhân Ban]]; tham tri chánhchính sự [[Dã Tiên Thiếp Mộc Nhi]], [[Thiểm Tây]] hành tỉnh bình chương [[Nguyệt Lỗ Thiếp Mộc Nhi]], Dự vương [[A Lạt Thắc Nạp Thất Lý]], Tri xu mật viện sự [[Lão Chương]] chia đường vây tiễu hai cánh Nam - Bắc Tỏa Hồng quân, ý đồ cô lập Lưu Phúc Thông. Tháng 5, Đáp Thất Bát Đô Lỗ hạ được [[Tương Dương]], “Bố vương tam” Vương Quyền bị bắt, Bắc Tỏa Hồng quân bị trấn áp. Trong lúc này, các cánh quân của bọn địa chủ vũ trang [[Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi]] và [[Lý Tư Tề]] phá được [[La Sơn]], lực lượng phát triển lên đến hàng vạn người, đồn trú Trầm Khâu <ref>Nay là tây bắc [[Lâm Tuyền]], An Huy</ref>, liên tiếp đánh bại nghĩa quân Khăn Đỏ, gây ra vô vàn khó khăn cho bọn Lưu Phúc Thông.
 
Tháng giêng năm thứ 14 (1354), Đáp Thất Bát Đô Lỗ hạ được Thiểm Châu <ref>Nay là huyện Thiểm, thành phố Tam Môn Hạp, Hà Nam</ref>, Mạnh Hải Mã tử trận, Nam Tỏa Hồng quân bị trấn áp. Sau 3 tháng vây khốn [[Trương Sĩ Thành]] ở [[Cao Bưu]], đầu năm thứ 15 (1355), [[Thoát Thoát]] bị bãi binh quyền rồi bị hại, quân đội nhà Nguyên rệu rã, chỉ trông vào lực lượng của địa chủ vũ trang. Phúc Thông lợi dụng tình thế thay đổi theo hướng có lợi, vào tháng 2, đón con trai Hàn Sơn Đồng là [[Hàn Lâm Nhi]] ở trại Giáp Hà, núi Nãng; kiến lập chánhchính quyền, đặt quốc hiệu là Tống, đổi niên hiệu là Loan Phượng, đưa Lâm Nhi lên ngôi, xưng là “'''Tiểu Minh vương'''”.
 
Tháng 6, Phúc Thông soái quân tấn công [[Biện Lương]], nhằm phân tán binh lực của quan quân, từ tháng 9 năm thứ 16 đến mùa hạ năm thứ 17 (1357), Phúc Thông tổ chức 3 lộ quân bắc phạt: quân Đông lộ do [[Mao Quý]] soái lãnh, từng đến Táo Lâm, Liễu Lâm <ref>Nay là nội địa [[Thông Châu|huyện Thông]], [[Bắc Kinh]]</ref>, khiến cho [[Đại Đô]] kinh động; quân Tây lộ do [[Bạch Bất Tín]], “Đại đao ngao”, [[Lý Hỷ Hỷ]] đi [[Quan Trung]]; quân Trung lộ do “Quan tiên sanh” [[Quan Đạc]], “Phá đầu phan” [[Phan Thành]], [[Phùng Trường Cữu]], [[Sa Lưu Nhị]], [[Vương Sĩ Thành]] đi [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]].
Hàng 26 ⟶ 27:
===Giai đoạn thoái trào===
====Phía bắc Trường Giang====
Cùng năm (1358), quan quân phá Tào Châu, cắt đứt liên hệ giữa chánhchính quyền Tống với quân Khăn Đỏ ở [[Sơn Đông]]. Đầu năm thứ 19 (1359), [[Bột La Thiếp Mộc Nhi]] trú thủ [[Đại Đồng]], cắt đứt liên hệ giữa chánh quyền Tống với quân Khăn Đỏ Trung lộ. Quân Tây lộ bị bọn Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi đánh bại, tan chạy vào [[Thục]], lại thêm Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi đưa trọng binh trú thủ Thằng Trì, Lạc Dương, chuẩn bị tấn công Biện Lương. ChánhChính quyền Tống trở nên bị cô lập, không có viện quân.
 
Tình hình ở Sơn Đông liên tục thay đổi. Mao Quý bắc phạt thất bại nên quay về [[Ích Đô]]. Sau khi [[Triệu Quân Dụng]] thất thủ [[Hoài An]], đến nương nhờ Mao Quý, rồi lại lừa giết Mao Quý. Bộ tướng của Mao Quý là [[Tục Kế Tổ]] từ [[Liêu Dương]] về Ích Đô, giết Quân Dụng. Một loạt biến cố khiến quân Khăn Đỏ ở Sơn Đông chỉ còn lực lượng của [[Điền Phong]] ở Đông Bình là nguyên vẹn, nhưng cũng không chống nổi.
Hàng 39 ⟶ 40:
Các lực lượng vũ trang nông dân ở phía nam Trường Giang phát triển ngày càng mạnh mẽ, bởi không còn phải chịu áp lực của quan quân, thế lực của bọn địa chủ vũ trang cũng không thể vươn đến, nên họ quay sang thôn tính lẫn nhau.
 
[[Chu Nguyên Chương]] thay Quách Tử Hưng bệnh mất từ năm thứ 15 (1355), là thế lực duy nhất ở phía nam [[Trường Giang]], dù là trên danh nghĩa, phục tùng chánhchính quyền Tống. [[Từ Thọ Huy]] đã xưng đế, đặt quốc hiệu là Thiên Hoàn từ năm thứ 11 (1351); [[Trần Hữu Lượng]] soán ngôi Thọ Huy, đổi quốc hiệu là Hán từ năm thứ 20 (1360).
 
Sau khi chạy về An Phong, chánhchính quyền Tống chỉ còn tồn tại lay lắt bên cạnh Giang Nam hành tỉnh của Chu Nguyên Chương. Tuy nhiên, Nguyên Chương vẫn dùng niên hiệu Loan Phượng cho đến khi Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi chết đuổi ở Qua Bộ (1366).
 
Kể từ khi bọn Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi trấn áp thành công nghĩa quân Khăn Đỏ ở phía bắc Trường Giang, thực tế không còn lực lượng vũ trang nông dân nào nữa, cuộc chiến tranh nhân dân phản kháng phong kiến đã trở thành cuộc chiến tranh quân phiệt!
Hàng 53 ⟶ 54:
 
[[Thể loại:Khởi nghĩa cuối đời Nguyên]]
 
{{Link FA|cs}}
[[cs:Povstání rudých turbanů]]
[[de:Rote Turbane]]
[[en:Red Turban Rebellion]]
[[es:Revuelta de los Turbantes Rojos]]
[[fr:Révolte des Turbans rouges]]
[[ko:홍건의 난]]
[[it:Rivolta dei Turbanti Rossi]]
[[ms:Pemberontakan Serban Merah]]
[[ja:紅巾の乱]]
[[no:De røde turbaners opprør]]
[[pl:Powstanie Czerwonych Turbanów]]
[[ru:Восстание Красных повязок]]
[[th:กบฏโพกผ้าแดง]]
[[uk:Повстання червоних пов'язок]]
[[zh:紅巾軍]]