Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đường hầm Seikan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ZéroBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (Bot: Thêm zh-min-nan:Seikan Sūi-tō
n Tập tin Seikan500.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài vì nó đã bị xóa ở Commons bởi INeverCry vì lý do Per commons:Commons:Deletion requests/File:Seikan500.jpg.
Dòng 57:
Ở thời điểm ấy sự thành công của dự án đã bị nghi ngờ, với những dự báo về giao thông năm 1971 bị cho là quá thổi phồng. Thay vì tỷ lệ tăng giao thông như được dự đoán cho một đỉnh điểm năm 1985, đã tới trước vào năm 1978 và sau đó bắt đầu giảm. Sự giảm sút được cho là có nguyên nhân từ sự sụt giảm tốc độ phát triển của nền kinh tế Nhật Bản từ cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất năm 1973, và bởi những tiến bộ trong ngành vận tải hàng không và vận tải đường biển tầm xa.<ref name=Galloway>{{chú thích báo|first = Peter |last = Galloway |title = Japan's super tunnel a political nightmare |work = Special to The Globe and Mail |page = 15 |date = 25 February 1981}}</ref>
 
 
[[Tập tin:Seikan500.jpg|nhỏ|phải|Đồng xu 500 [[yen]] kỷ niệm]]
Đường hầm được mở cửa ngày 13 tháng 3 năm 1988, với tổng chi phí xây dựng ¥538.4&nbsp;tỷ (US$3.6 tỷ).<ref name=Morse>{{chú thích tạp chí| author=Morse, D. | title=Japan Tunnels Under the Ocean | journal=Civil Engineering | month=May | year=1988 | volume=58 | issue = 5 | pages=50–53}}</ref>