Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rắn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Rat183 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Meotrangden (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 42:
** [[Typhlopidae]] - Merrem, 1820<ref name="ITIS">{{ITIS|ID=174118|taxon=Serpentes|year=2007|date=20 August}}</ref>
}}
'''Rắn''' là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài [[động vật bò sát]] ăn thịt, không chân và thân hình thuôn dài, thuộc phân bộ '''Serpentes''', có thể phân biệt với các loài [[thằn lằn không chân]] bằng các đặc trưng như không có mí mắt và tai ngoài. Giống như các loài bò sát có vảy ([[Squamata]]) khác, rắn là động vật có xương sống, [[động vật có màng ối|có màng ối]], [[động vật ngoại nhiệt|ngoại nhiệt]] với các lớp [[vảy (động vật học)|vảy]] xếp chồng lên nhau che phủ cơ thể. Nhiều loài rắn có [[sọ]] với nhiều khớp nối hơn các tổ tiên là động vật dạng thằn lằn của chúng, cho phép chúng nuốt các con mồi to lớn hơn nhiều so với đầu chúng với [[vận động hộp sọ|các quai hàm linh động cao]]. Để phù hợp với cơ thể thuôn và hẹp của mình, các cơ quan có cặp đôi của rắn (như thận) được bố trí theo kiểu cái này nằm phía trước cái kia thay vì ngang hàng ở hai bên, và phần lớn các loài rắn chỉ có một [[phổi]] hoạt động. Một vài loài vẫn duy trì một [[đai chậu]] với một cặp vuốt dạng vết tích ở một trong hai bên của [[lỗ huyệt]].
'''Rắn''' là [[động vật]] [[máu lạnh]], [[động vật bò sát|bò sát]] - cùng lớp với các loài [[Squamata|có vảy]] như [[thằn lằn]], [[tắc kè]] - nhưng không có chân.
 
Các loài rắn còn sinh tồn được tìm thấy trên gần như mọi châu lục (ngoại trừ [[châu Nam Cực]]), trong lòng các đại dương như [[Ấn Độ Dương]] và [[Thái Bình Dương]], và trên phần lớn các khối lục địa nhỏ hơn — các ngoại lệ bao gồm một số đảo lớn như [[Ireland]] và [[New Zealand]], và nhiều đảo nhỏ trong Đại Tây Dương và Trung Thái Bình Dương<ref name=Bauchot>{{cite book|last= Bauchot|first=Roland|title=Snakes: A Natural History|year=1994|publisher=Sterling Publishing Co., Inc.|location=New York City, NY, Hoa Kỳ|isbn=1-4027-3181-7|pages=220}}</ref>. Trên 20 [[Họ (sinh học)|họ]] rắn hiện nay đang được công nhận, bao gồm khoảng 500 [[Chi (sinh học)|chi]] với khoảng 3.400-3.550 [[loài]]<ref name="ITIS">{{ITIS |id=174118 |taxon=Serpentes |accessdate=7-8-2012}}</ref><ref name="NRDB-Cs">[http://reptile-database.reptarium.cz/search.php?taxon=snake&submit=Search Danh sách các loài rắn] tại [http://reptile-database.org/ Reptile Database]. Tra cứu 07-08-2012.</ref>. Kích thước của chúng biến động từ nhỏ, như [[rắn chỉ]] (''Leptotyphlops carlae'') chỉ dài khoảng 10 cm (4 inch), cho tới lớn như [[trăn gấm]] (''Python reticulatus'') dài tới 8,7 m (29 ft)<ref name=Mur97>{{cite book|last=Murphy; Henderson|first=JC; RW|title=Tales of Giant Snakes: A Historical Natural History of Anacondas and Pythons|year=1997|publisher=Krieger Pub. Co|location=Florida, Hoa Kỳ|isbn=0-89464-995-7|pages=221}}</ref><ref name=Meh87>{{cite book|last=Mehrtens|first=JM|title=Living Snakes of the World in Color|year=1987|publisher=Sterling Publishers|location=New York City, NY, Hoa Kỳ|isbn=0-8069-6460-X|pages=480}}</ref>. Loài tìm thấy ở dạng hóa thạch là ''[[Titanoboa cerrejonensis]]'' dài tới 15 m (49 ft). Người ta cho rằng rắn đã tiến hóa từ các loài động vật dạng thằn lằn hoặc là sống đào bới hoặc là thủy sinh trong giai đoạn [[kỷ Creta|Creta]] giữa, và các hóa thạch sớm nhất đã biết có niên đại khoảng 112 [[triệu năm trước|Ma]]. Sự đa dạng của rắn đã xuất hiện trong [[thế Paleocen]] (khoảng 66 tới 56 Ma).
== Tiến hóa ==
 
Phần lớn các loài rắn không có nọc độc, còn những loài nào có nọc độc thì chủ yếu sử dụng nó vào việc giết chết hay khuất phục con mồi thay vì để phòng vệ. Một số loài có nọc độc mạnh tới mức đủ gây ra vết thương đau nhức hay gây [[chết|tử vong]] cho con người. Các loài rắn không nọc độc hoặc là nuốt sống con mồi hoặc là giết nó bằng cách quấn và vặn xiết.
Sự phát sinh của loài rắn được biết rất ít do một thực tế là bộ xương rắn rất nhỏ và dễ vỡ, khiến cho việc tạo thành hoá thạch khó xảy ra. Tuy nhiên có sự thống nhất chung trên cơ sở hình thái học: Loài rắn tiến hoá từ tổ tiên của loài thằn lằn. Nghiên cứu gần đây dựa trên công nghệ gen và sinh hoá xác nhận điều này: rắn tạo ra loại nọc độc có chung một nguồn gốc với một vài họ thằn lằn còn tồn tại.
 
==Tiến Săn mồi hóa==
{{userboxtop|align = right|toptext=Tổng quan phát sinh chủng loài các nhóm còn sinh tồn}}
[[Tập tin:Snake eating mouse.jpg|nhỏ|trái|180px|Rắn ăn thịt chuột]]
{{clade|style=font-size:90%;line-height:90%
Tất cả các loài rắn đều ăn thịt. Chúng có thể ăn cả những con rắn khác và những động vật có vú, động vật nhỏ như thằn lằn, chim, trứng các loài khác hay sâu bọ. Một số loài có nọc độc để giết chết con mồi trước khi tiêu thụ. Một số loài khác thì xiết mồi đến chết. Thậm chí có những loài rắn nuốt sống cả con mồi. Hầu hết rắn khi bị nhốt thì rất dễ cho ăn, trừ một số loại đặc biệt.
|label1=Rắn&nbsp;ngày&nbsp;nay
|1={{clade
|label1=[[Scolecophidia]]
|1={{clade
|1=[[Leptotyphlopidae]]
|label2=&nbsp;
|2={{clade
|1=[[Anomalepididae]]
|2=[[Typhlopidae]]
}}
}}
|label2=[[Alethinophidia]]
|2={{clade
|1=''[[Anilius]]''
|label2=Alethinophidia&nbsp;phần&nbsp;lõi
|2={{clade
|label1=[[Uropeltidae]]
|1={{clade
|1=''[[Cylindrophis]]''
|label2=&nbsp;
|2={{clade
|1=''[[Anomochilus]]''
|2=Uropeltinae
}}
}}
|label2=Macrostomata
|2={{clade
|label1=[[Pythonidae]]
|1={{clade
|1=[[Pythoninae]]
|2=''[[Xenopeltis]]''
|3=''[[Loxocemus]]''
}}
|label2=[[Caenophidia]]
|2={{clade
|1=[[Colubridae]]
|2=''[[Acrochordidae]]''
|3=[[Atractaspididae]]
|4=[[Elapidae]]
|5=[[Hydrophiidae]]
|6=[[Viperidae]]
}}
|label3=[[Boidae]]
|3={{clade
|1=[[Erycinae]]
|2=[[Boinae]]
|3=''[[Calabaria]]''
}}
|4=[[Ungaliophiinae]]
}}
|3=[[Tropidophiinae]]
}}
}}
}}
}}
''Lưu ý: Biểu đồ này chỉ chỉ ra các mối quan hệ chứ không chỉ ra khoảng thời gian tạo nhánh tiến hóa.''<ref name=Lee/>
{{userboxbottom}}
Hồ sơ hóa thạch rắn là khá nghèo nàn do các [[bộ xương]] rắn thông thường là nhỏ và dễ gãy, là cho sự hóa thạch là không phổ biến. Các hóa thạch có thể được nhận dạng như là rắn (mặc dù thường vẫn duy trì các chi sau) lần đầu tiên xuất hiện trong hồ sơ hóa thạch trong [[kỷ Creta]]<ref>Durand, J.F. (2004). "The origin of snakes". Geoscience Africa 2004. Abstract Volume, Đại học Witwatersrand, Johannesburg, Nam Phi, tr. 187.</ref>. Các hóa thạch rắn sớm nhất đã biết được tìm thấy tại các di chỉ trong khu vực Utah và Algeria, đại diện tương ứng cho các chi ''[[Coniophis]]'' và ''[[Lapparentophis]]''. Các hóa thạch này được cho là có niên đại tương ứng với [[tầng Alba]] hay [[tầng Cenomanum]] (dù không chắc chắn lắm) vào cuối kỷ Creta, khoảng 112 tới 94 Ma. Tuy nhiên, niên đại thậm chí còn sớm hơn đã từng được đề xuất cho một trong các di chỉ tại Algeria, có thể cổ tới mức tương ứng với [[tầng Apt]], 125 tới 112 Ma<ref name=timetree>Vidal N., Rage J.-C., Couloux A. và Hedges S.B. (2009). "Snakes (Serpentes)". Tr. 390-397 trong Hedges S.B. và Kumar S. (chủ biên), ''The Timetree of Life''. Nhà in Đại học Oxford.</ref>.
 
Dựa theo [[giải phẫu học so sánh]], người ta có sự đồng thuận cho rằng rắn là hậu duệ của một nhóm [[thằn lằn]]<ref name="Meh87">Mehrtens JM. 1987. Living Snakes of the World in Color. New York: Sterling Publishers. 480 tr. ISBN 0-8069-6460-X.</ref>{{Rp|11}}<ref name="Sanchez">{{cite web |last = Sanchez |first = Alejandro |title = Diapsids III: Snakes |work= Father Sanchez's Web Site of West Indian Natural History |url = http://www.kingsnake.com/westindian/metazoa12.html |accessdate = 07-08-2012}}</ref>. Người ta cũng cho rằng các loài trăn trong các họ [[Pythonidae]] và [[Boidae]] là các nhóm nguyên thủy nhất trong số các loài rắn hiện đại—chúng có các chi sau dạng vết tích: các ngón chân nhỏ xíu có vuốt gọi là các [[cựa hậu môn]], được chúng sử dụng để bấu víu trong khi giao phối<ref name="Meh87"/>{{Rp|11}}<ref name="legs"/>. Các họ [[Leptotyphlopidae]] và [[Typhlopidae]] cũng có các dấu tích của đai chậu, đôi khi xuất hiện như là các chỗ lồi ra dạng chất sừng khi nhìn thấy.
Xương hàm dưới của rắn rất linh hoạt, hai hàm của nó không gắn liền cố định mà đa phần được nối thẳng vào sọ, cho phép chúng mở rộng miệng để nuốt trọn con mồi dù cho con mồi có lớn hơn nhiều so với đường kính thân rắn. Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng mỗi khi nuốt mồi lớn rắn phải đảo hàm dưới của nó.
 
Tất cả các loài rắn hiện đã biết đều không có chi trước. Điều này là do sự tiến triển của các [[gen Hox]], kiểm soát [[sự tạo hình]] chi. Cột sống của tổ tiên chung của các loài rắn, giống như phần lớn các loài động vật bốn chân khác, có các chuyên biệt hóa khu vực bao gồm các đốt sống cổ, ngực, thắt lưng, cùng (chậu) và đuôi. Ngay từ ban đầu trong tiến hóa của rắn thì sự biểu lộ các gen Hox trong phần cột sống chịu trách nhiệm cho sự phát triển đốt sống ngực đã chiếm ưu thế. Kết quả là tất cả các đốt sống phía trước các chồi chi sau (khi có mặt) đều có cùng một nhận dạng giống như kiểu đốt sống ngực (ngoại trừ từ [[đốt sống đội]], [[đốt sống trục]] và các đốt sống cổ 1–3). Nói cách khác, phần lớn bộ xương của rắn có thể coi là một cái ngực kéo cực kỳ dài. Các xương sườn chỉ được tìm thấy trên các đốt sống ngực. Các đốt sống cổ, thắt lưng và khung chậu bị giảm đi rất nhiều về lượng (chỉ có 2–10 đốt sống thắt lưng và chậu), trong khi chỉ có các dấu tích ngắn của các đốt sống đuôi. Tuy nhiên, đuôi vẫn đủ dài để có công dụng quan trọng ở nhiều loài, và nó bị biến đổi ở một số loài sống dưới nước hay leo trèo trên cây.
Sau khi ăn, rắn trở nên lười biếng và thụ động trong khi hệ tiêu hóa bắt đầu làm việc. Lúc này, hệ tiêu hóa hoạt động rất mạnh, nhất là khi phải tiêu thụ 1 con mồi lớn. Ở một số loài rắn, toàn bộ hệ thống tiêu hóa sẽ nghỉ ngơi giữa những bữa ăn để tránh thất thoát năng lượng do rắn ăn khá ít; trong vòng 48 giờ hệ tiêu hóa sẽ hấp thụ đầy đủ chất dinh dưỡng từ con mồi. Ở loài [[rắn đuôi chuông Mêhicô]], năng lượng được chuyển hóa rất nhiều trong khi tiêu hóa, cơ thể chúng có thể tăng lên đến 14 độ C so với môi trường xung quanh.<ref>{{Chú thích web
| coauthors =Glenn J. Tattersall1, William K. Milsom, Augusto S. Abe, Simone P. Brito, Denis V. Andrade
| year = 2004
| url =http://jeb.biologists.org/cgi/content/abstract/207/4/579
| title =The thermogenesis of digestion in rattlesnakes
| work =Journal of Experimental Biology 207
| pages =579-585
| publisher =The Company of Biologists
| accessdate =2006-05-26
| accessyear =2006
 
Các loài rắn hiện đại đã da dạng hóa mạnh trong [[thế Paleocen]]. Điều này diễn ra cùng với [[phân tỏa thích nghi]] của động vật có vú, ngay sau sự kiện tuyệt chủng của [[khủng long]] phi chim. Các loài rắn thuộc họ [[Colubridae]], một trong các nhóm rắn phổ biến nhất, dã trở nên cực kỳ đa dạng do thức ăn của chúng là [[động vật gặm nhấm]], một nhóm động vật có vú đặc biệt thành công.
}}</ref> Vì vậy, khi đang tiêu hóa mồi mà bị tấn công đột ngột, rắn có thể nôn con mồi ra để đối phó với sự đe dọa bất ngờ đó. Tuy nhiên, khi không có động tĩnh, bộ tiêu hóa của rắn hoạt động rất hiệu quả, có thể hấp thụ mọi thứ trừ lông và móng của con mồi, chúng sẽ chuyển 2 thứ này xuống hệ bài tiết của rắn. Thỉnh thoảng khi cố nuốt một con mồi quá lớn rắn có thể chết. [[Axít]] trong dạ dày rắn phần lớn không chuyển hóa được các loại thực vật thành chất dinh dưỡng.
 
===Nguồn gốc===
Loài rắn thường không cắn người, tuy nhiên có trường hợp những đứa trẻ bị trăn khổng lồ tấn công trong rừng nhiệt đới. Ngay cả một số loài rắn vốn được xem là hung dữ cũng rất ít khi nào cắn người nếu chúng không bị giật mình hay bị khiêu khích, ngoài ra chúng thường lảng đi nơi khác. Phần lớn rắn không độc hoặc độc của chúng cũng không gây chết người.
Nguồn gốc của rắn vẫn là một vấn đề chưa được giải quyết. Có hai giả thuyết chính cạnh tranh lẫn nhau về nguồn gốc của rắn.
 
;Giả thuyết thằn lằn đào bới
Thông thường, rắn ăn thịt những loài [[động vật gặm nhấm]]. Có một vài ngoại lệ như rắn lục, chỉ ăn sâu bọ. Nói chung, rắn thường ăn một số loại thức ăn cố định như chuột hoặc chuột hoang gerbil (đối với rắn chúa).
Có chứng cứ hóa thạch cho thấy rắn có thể đã tiến hóa từ thằn lằn sống kiểu đào bới, chẳng hạn như [[Họ Kỳ đà|Varanidae]] (hoặc một nhóm tương tự) trong [[kỷ Creta]]<ref name="EB">{{Cite journal |last =Mc Dowell |first =Samuel |title =The evolution of the tongue of snakes and its bearing on snake origins |journal =Evolutionary Biology |year =1972 |volume=6 |pages = 191–273}}</ref>. Một loài rắn hóa thạch cổ, ''[[Najash rionegrina]]'', là một động vật đào bới có hai chân với [[xương cùng]], và sống hoàn toàn trên cạn<ref name=najash>{{cite journal |last = Apesteguía |first = Sebastián |coauthors = Hussam Zaher |year = 2006 |month = tháng 4 |title = A Cretaceous terrestrial snake with robust hindlimbs and a sacrum |journal = Nature |volume = 440 |issue = 7087 |pages = 1037–1040 |doi = 10.1038/nature04413 |url = http://www.nature.com/nature/journal/v440/n7087/edsumm/e060420-11.html |accessdate = 7-8-2012 |pmid = 16625194 |last1 = Apesteguía |first1 = S |last2 = Zaher |first2 = H}}</ref>. Một loài còn sinh tồn tương tự như tổ tiên giả định này là kỳ đà không tai (''[[Lanthanotidae|Lanthanotus borneensis]]'') ở [[Borneo]] (mặc dù nó là động vật bán thủy sinh)<ref name="M2">{{Cite journal |last =Mertens | first =Robert |title =Lanthanotus: an important lizard in evolution |journal =Sarawak Museum Journal |year =1961 |volume=10 |pages = 320–322 }}</ref>. Các loài sống ngầm dưới lòng đất đã tiến hóa để có một cơ thể thuôn dạng khí động học phục vụ cho việc đào bới, và cuối cùng đã mất đi các chi<ref name="M2"/>. Theo giả thuyết này, các đặc trưng như [[độ trong suốt]], các mí mắt hợp nhât ([[vảy mắt]]) và sự mất đi các tai ngoài đã tiến hóa để đương đầu với các khó khăn trong cuộc sống đào bới, như các [[giác mạc]] bị xây sát và chất bẩn lọt vào tai<ref name="EB"/><ref name="M2"/>. Một số loài rắn nguyên thủy còn có các chi sau, nhưng các xương chậu của chúng không có kết nối trực tiếp tới cột sống. Chúng bao gồm các loài hóa thạch như ''[[Haasiophis]]'', ''[[Pachyrhachis]]'' và ''[[Eupodophis]]'', đều có niên đại hơi cổ hơn ''[[Najash]]''<ref name="legs">{{cite web |title = New Fossil Snake With Legs |work = UNEP WCMC Database | publisher =American Association For The Advancement Of Science |location = [[Washington, D.C.]] |url = http://www.wildlifenews.co.uk/articles2000/march/march2500a.htm | accessdate =7-8-2012}}</ref>.
[[Tập tin:Naturkundemuseum Berlin - Archaeophis proavus Massalongo - Monte Bolca.jpg|nhỏ|trái|Hóa thạch của ''Archaeophis proavus''.]]
 
;Giả thuyết thương long thủy sinh
== Da rắn ==
Một giả thuyết khác, dựa vào [[hình thái học]], cho rằng tổ tiên của rắn là có họ hàng với [[thương long]] (Mosasauridae)—một nhóm bò sát thủy sinh đã tuyệt chủng, từng sinh sống trong [[kỷ Creta]]—tới lượt chúng, thương long lại được coi là có nguồn gốc từ thằn lằn dạng kỳ đà ([[Varanoidea]])<ref name="Sanchez"/>. Theo giả thuyết này thì các mí mắt trong suốt và hợp nhất của rắn được cho là đã tiến hóa để chống lại các điều kiện biển cả (dịch giác mạc bị mất qua [[thẩm thấu]]), và các tai ngoài bị mất do nó là vô dụng trong môi trường nước. Điều này cuối cùng dẫn tới con vật tương tự như [[rắn biển]] ngày nay. Vào cuối kỷ Creta, rắn đã tái chiếm đất liền và tiếp tục đa dạng hóa thành rắn ngày nay. Các dấu tích rắn hóa thạch được biết đến trong các trầm tích biển thuộc thời kỳ đầu của giai đoạn Creta muộn là phù hợp với giả thuyết này; đặc biệt là chúng đều cổ hơn so với loài ''Najash rionegrina'' sống trên cạn. Cấu trúc hộp sọ tương tự, các chi tiêu giảm hay không có, và các đặc trưng giải phẫu khác được tìm thấy ở cả thương long lẫn rắn dẫn tới mối tương quan miêu tả theo nhánh rõ ràng, mặc dù một vài đặc trưng này cũng được chia sẻ với thằn lằn dạng kỳ đà.
Da rắn được phủ kín vảy. Hầu hết rắn di chuyển dựa vào lớp vảy này. Da rắn khá nhẵn hoặc có hạt. Mi mắt rắn trong suốt và thường xuyên đóng kín, được gọi là [[vảy mắt]]. Rắn lột da để lớn theo theo chu kỳ. Không giống những loài bò sát khác, cách thức lột da của rắn giống như người ta tháo bỏ một chiếc bít tất: nó cọ đầu và mũi vào những vật cứng, như đá, cho tới khi da rách và chúng bắt đầu lột.[http://www.ag.ohio-state.edu/~news/story-print.php?id=3182]
[[Tập tin:Rod of asclepius.jpg|nhỏ|trái|130px|''Rod of Asclepius'' - biểu tượng y học hiện đại]]
Mục đích cơ bản của việc này là để trưởng thành; lột da cũng khiến rắn loại bỏ ký sinh trùng. Sự tái sinh này biểu hiện cho một sự hồi phục như trong bức tranh [[Rod of Asclepius]](cái gậy của Thần Y Thuật).
[[Tập tin:Da rắn.jpg|nhỏ|phải|200px|Bộ da vừa lột của một con rắn trong sở thú]]
Ở các loài rắn thuộc chi Caenophidia, số vảy bụng và hàng vảy lưng của nó tương ứng với số đốt xương sống; nhờ vậy các nhà khoa học không cần phẫu thuật cũng có thể theo dõi được.
 
Các nghiên cứu di truyền gần đây đã chỉ ra rằng rắn không có quan hệ họ hàng gần với kỳ đà như người ta đã từng một thời tin tưởng—và vì thế cũng không gần với thương long, tổ tiên được đề xuất trong kịch bản thủy sinh trong quá trình tiến hóa của chúng. Tuy nhiên, có nhiều chứng cứ liên kết thương long với rắn hơn là với kỳ đà. Các dấu tích phân mảnh tìm thấy trong thời kỳ từ [[kỷ Jura]] và Creta sớm chỉ ra các hồ sơ hóa thạch sâu hơn cho các nhóm này, và điều này có thể sẽ bác bỏ cả hai giả thuyết vừa đề cập.
Khi rắn lột da, nếu không có đủ độ ẩm thì sẽ rất nguy hiểm, lớp da khô không thể bị lột ra. Lớp da bám lại sẽ là nơi sản sinh ra bệnh tật và vi khuẩn. Một phần nhỏ ở cuối đuôi rắn không hề thay đổi khi rắn lớn lên có thể thắt chặt nó; để giải quyết vấn đề, rắn tự cắt đứt đường máu đưa tới khúc đuôi đó và từ từ nó sẽ rụng đi.
 
== DiPhân chuyểnbố ==
[[Tập tin:World distribution of snakes.svg|nhỏ|400px|Phân bố toàn thế giới (gần đúng) của rắn.]]
Toàn thân rắn được bao bọc một lớp [[vảy]]. Những chiếc vảy này vô cùng cứng rắn, không lớn lên tương ứng theo sự trưởng thành của thân thể rắn. Vì vậy cứ 2-3 [[tháng]] rắn phải thay da một lần. Những chiếc vảy này không chỉ giúp rắn bảo vệ mà còn có chức năng như bàn chân để rắn trườn bò: khi di chuyển, thân dài và nhỏ của nó uốn thành hình chữ [[S]], phía dưới thân thể theo sát bộ phận phía trên để bò lên cùng vị trí ấy. Khi bò, các vảy trườn theo bộ phận lồi ra, rắn dùng đầu nhọn của các chiếc vảy để trèo lên những đám [[cỏ]] hoặc đám đất gồ ghề.
Có khoảng 3.500 loài rắn phân bố từ vùng phía bắc tới [[vòng Bắc Cực]] tại [[Scandinavia]] cho tới phía nam tại [[Australia]]<ref name="Sanchez"/>. Rắn có thể được thấy trên gần như mọi châu lục (trừ [[châu Nam Cực]]), trong lòng đại dương, cũng như cao tới cao độ 4.900 m (16.000 ft) trong khu vực dãy núi [[Himalaya]] ở [[châu Á]]<ref name="Sanchez"/><ref name="Con91">Conant R, Collins JT. 1991. A Field Guide to Reptiles and Amphibians: Eastern and Central North America. Houghton Mifflin, Boston. 450 tr. 48 tiêu bản. ISBN 0-395-37022-1.</ref>{{Rp|143}}. Có nhiều hòn đảo không có rắn, như [[Ireland]], [[Iceland]] và [[New Zealand]]<ref name="Con91"/><ref name=Bauchot/> (mặc dù vùng biển ven New Zealand thỉnh thoảng vẫn thấy có [[rắn đẻn sọc dưa]] (''Pelamis platura'') và [[rắn cạp nia biển]] (''Laticauda colubrina'')<ref name="AucklandMuseum">{{cite web |url=http://www.aucklandmuseum.com/349/natural-history-questions##2 |title=Natural History Questions |author=Natural History Information Centre, Auckland War Memorial Museum |work=Auckland War Memorial Museum {{pipe}} Tamaki Paenga Hira |publisher=Auckland War Memorial Museum |location=[[Auckland]], New Zealand |at=Q. Are there any snakes in New Zealand? |accessdate=26-4-2012}}</ref>
 
===Phân Rắn bay =loại==
Tất cả các loài rắn hiện đại được gộp nhóm trong [[Bộ (sinh học)|phân bộ]] ''Serpentes'' trong [[phân loại học Linnaeus]], một phần của [[Bộ (sinh học)|bộ]] [[Squamata]] (bò sát có vảy), mặc dù vị trí chính xác của chúng trong phạm vi bò sát có vảy vẫn là điều gây mâu thuẫn<ref name="ITIS">{{ITIS |id=174118 |taxon=Serpentes |accessdate=07-08-2012}}</ref>
Một số loại rắn đặc biệt có khả năng lướt nhanh, hầu hết là thuộc chi ''[[Chrysopelea]]''. Chúng có khả năn phóng/bay rất xa, khoảng 13,7 mét trong không khí.
 
Người ta thường chia phân bộ này thành 2 cận bộ là [[Alethinophidia]] và [[Scolecophidia]]<ref name="ITIS"/>. Sự chia tách này dựa theo các đặc trưng hình thái học và sự tương đồng trình tự [[AND ti thể]]. Alethinophidia đôi khi được chia tách tiếp thành [[Henophidia]] và [[Caenophidia]], với nhóm thứ hai bao gồm các loài rắn dạng "rắn nước" (Colubridae, Viperidae, Elapidae, Hydrophiidae và Attractaspididae) và Acrochordidae, trong khi các họ rắn dạng Alethinophidia còn lại tạo thành Henophidia<ref name="Pou92">{{cite book | author=Pough ''và ctv.'' |origyear=1992 |title= Herpetology: Third Edition |publisher= Pearson Prentice Hall |year=2002 |isbn=0-13-100849-8}}</ref>. Trong khi không còn loài nào sinh tồn ngày nay nhưng [[Madtsoiidae]], một họ bao gồm các loài rắn khổng lồ; nguyên thủy; giống như trăn, đã từng sinh sống cho tới khoảng 50.000 năm trước tại Australia, với các chi như ''[[Wonambi]]''.
== Sinh sản ==
 
Có nhiều tranh luận liên quan tới hệ thống học trong phạm vi nhóm này. Chẳng hạn, nhiều nguồn coi [[Boidae]] và [[Pythonidae]] chỉ là một họ trong khi quan hệ họ hàng của chúng không thực sự gần, trong khi lại coi [[Elapidae]] (rắn hổ) và [[Hydrophiidae]] (rắn biển) là các họ tách biệt vì các lý do thực tiễn trong khi quan hệ của chúng là rất gần gũi.
Rắn sinh sản bằng nhiều cách. Hầu hết rắn đều đẻ trứng, và đa số số này cũng rời bỏ trứng của chúng sau khi đẻ; tuy nhiên, một số loài giữ trứng trong cơ thể chúng đến khi trứng nở. Gần đây, khoa học xác định được một số loài rắn đẻ con, giữ con của chúng trong nhau thai hoặc một thứ tương tự túi noãn{{cần dẫn chứng}}; đây được xem là một điều khác thường trong giới bò sát. Việc giữ trứng trong cơ thể cho đến lúc nở thành con là một cách giúp rắn mẹ kiểm soát nhiệt độ cho các con chúng và bảo vệ con khỏi những khắc nghiệt của môi trường.
 
Các nghiên cứu phân tử gần đây hỗ trợ cho tính [[đơn ngành]] của nhánh chứa các loài rắn hiện đại, cũng như của hai nhánh [[Scolecophidia]] (Leptotyphlopidae + (Typhlopidae + Anomalepididae)) và [[Alethinophidia]] (''Anilius'' + Alethinophidia phần lõi (Uropeltidae (''Cylindrophis'' + ''Anomochilus'' + Uropeltinae) + Macrostomata (Tropidophiinae + Pythonidae + Caenophidia + Booidea (Boidae + Ungaliophiinae)))<ref name=Lee>{{cite journal |first=Michael S. Y. |last=Lee |coauthors=Andrew F. Hugall, Robin Lawson & John D. Scanlon|title=Phylogeny of snakes (Serpentes): combining morphological and molecular data in likelihood, Bayesian and parsimony analyses |journal=Systematics and Biodiversity |volume=5 |issue=4 |pages=371–389 |doi=10.1017/S1477200007002290 |url=http://hdl.handle.net/2440/44258 |year=2007}}</ref>.
== Bị rắn cắn ==
 
===Các họ===
Những cái chết do bị rắn cắn thường không phổ biến trên toàn thế giới. Chỉ có khoảng 450 loài rắn có độc (250 trong số đó có nọc độc đủ giết người), và so với con số 7.000 người Mỹ bị rắn cắn, số người chết so bị sét đánh còn nhiều hơn 15 người. Nên tìm hiểu để biết thêm về cách chữa trị khi bị rắn cắn.
{|cellspacing=0 cellpadding=2 border=1 style="border-collapse: collapse;"
|-
|colspan="100%" align="center" {{bgcolor-blue}}|Cận bộ '''[[Alethinophidia]]''' 15 họ
|-
! style="background:#f0f0f0;"|Họ<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Tác giả<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Số chi<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Số loài<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Tên thường gọi !! style="background:#f0f0f0;"|Phân bố<ref name="McD99">McDiarmid RW, Campbell JA, Touré T. 1999. Snake Species of the World: A Taxonomic and Geographic Reference, vol. 1. Herpetologists' League. 511 tr. ISBN 1-893777-00-6 (series). ISBN 1-893777-01-4 (volume).</ref>
|-
| [[Acrochordidae]] || [[Charles Lucien Bonaparte|Bonaparte]], 1831 || style="text-align:center;"|1 || style="text-align:center;"|3 || Rắn rằm ri cóc || style="width:40%"|Tây Ấn Độ và Sri Lanka qua vùng nhiệt đới Đông Nam Á tới Philippines, về phía nam qua nhóm đảo Indonesia/Malaysia tới Timor, về phía đông qua New Guinea tới vùng duyên hải phía bắc Australia tới [[đảo Mussau]], [[quần đảo Bismark]] và [[đảo Guadalcanal]] trong quần đảo Solomon.
|-
| [[Aniliidae]] || [[Leonhard Hess Stejneger|Stejneger]], 1907 || style="text-align:center;"|1 || style="text-align:center;"|1 || Rắn san hô giả || Nhiệt đới Nam Mỹ.
|-
| [[Anomochilidae]] || Cundall, Wallach, 1993 || style="text-align:center;"|1 || style="text-align:center;"|2 || Rắn ống lùn || Tây Malaysia và trên đảo [[Sumatra]] của Indonesia.
|-
| [[Atractaspididae]] || [[Albert C. L. G. Günther|Günther]], 1858 || style="text-align:center;"|12 || style="text-align:center;"|64 || Burrowing asps || Châu Phi và Trung Đông<ref name="Meh87"/><ref name="SB95">Spawls S, Branch B. 1995. The Dangerous Snakes of Africa. Ralph Curtis Books. Dubai: Oriental Press. 192 tr. ISBN 0-88359-029-8.</ref><ref name="P&G77">Parker HW, Grandison AGC. 1977. Snakes -- a natural history. Ấn bản lần 2. Bảo tàng Anh (Lịch sử Tự nhiên) và Nhà in Đại họcCornell. 108 tr. 16 tiêu bản. LCCCN 76-54625. ISBN 0-8014-1095-9 (vải), ISBN 0-8014-9164-9 (giấy).</ref>.
|-
| [[Boidae]] || [[John Edward Gray|Gray]], 1825 || style="text-align:center;"|8 || style="text-align:center;"|43 || Trăn || Bắc, Trung và Nam Mỹ, Caribe, đông nam châu Âu và Tiểu Á, Bắc, Trung và Đông Phi, Madagascar và [[đảo Reunion]], bán đảo Ả Rập, Trung và Tây Nam Á, Ấn Độ và Sri Lanka, [[Moluccas]] và New Guinea cho tới Melanesia và Samoa.
|-
| [[Bolyeriidae]] || [[Robert Hoffstetter|Hoffstetter]], 1946 || style="text-align:center;"|2 || style="text-align:center;"|2 || Trăn đảo Round, rắn hàm chẻ || [[Mauritius]].
|-
| [[Colubridae]] || [[Nicolaus Michael Oppel|Oppel]], 1811 || style="text-align:center;"|304<ref name="NRDB-Cs"/> || style="text-align:center;"|1938<ref name="NRDB-Cs"/> || Rắn điển hình || Phổ biến rộng khắp trên mọi châu lục, trừ châu Nam Cực<ref name="Spa04">Spawls S, Howell K, Drewes R, Ashe J. 2004. A Field Guide To The Reptiles Of East Africa. London: A & C Black Publishers Ltd. 543 tr. ISBN 0-7136-6817-2.</ref>
|-
| [[Cylindrophiidae]] || [[Leopold Fitzinger|Fitzinger]], 1843 || style="text-align:center;"|1 || style="text-align:center;"|8 || Rắn trun, rắn hai đầu || Sri Lanka về phía đông qua Myanma, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và bán đảo Mã Lai xa về phía đông tới [[quần đảo Aru]] ngoài khơi tây nam New Guinea. Cũng có ở miền nam Trung Quốc (Phúc Kiến, Hồng Kông và Hải Nam) và Lào.
|-
| [[Elapidae]] || [[Friedrich Boie|Boie]], 1827 || style="text-align:center;"|61 || style="text-align:center;"|235 || Rắn hổ || Trên cạn, khắp thế giới trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, trừ châu Âu. Nếu gộp cả rắn biển thì có trong Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương<ref name="NRDB-E">{{NRDB family |page=elapidae.php |family=Elapidae |date=3-12 |year=2008}}</ref>.
|-
| [[Loxocemidae]] || [[Edward Drinker Cope|Cope]], 1861 || style="text-align:center;"|1 || style="text-align:center;"|1 || Rắn đào bới Mexico || Dọc theo các sườn núi ven Thái Bình Dương từ Mexico về phía nam tới Costa Rica.
|-
| [[Pythonidae]] || [[Leopold Fitzinger|Fitzinger]], 1826 || style="text-align:center;"|8 || style="text-align:center;"|26 || Trăn || Châu Phi hạ Sahara, Ấn Độ, Myanma, Hoa Nam, Đông Nam Á và từ Philippines về phía đông nam qua Indonesia tới New Guinea và Australia.
|-
| [[Tropidophiidae]] || [[L.D. Brongersma|Brongersma]], 1951 || style="text-align:center;"|4 || style="text-align:center;"|22 || Trăn lùn || Từ nam Mexico và Trung Mỹ về phía nam tới tây bắc Nam Mỹ (lưu vực sông Amazon) ở Colombia, Ecuador và Peru, cũng như ở tây bắc và đông nam Brasil. Cũng có ở Tây Ấn.
|-
| [[Uropeltidae]] || [[Johannes Peter Müller|Müller]], 1832 || style="text-align:center;"|8 || style="text-align:center;"|47 || Rắn đuôi khiên || Nam Ấn Độ và Sri Lanka.
|-
| [[Viperidae]] || [[Nicolaus Michael Oppel|Oppel]], 1811 || style="text-align:center;"|32 || style="text-align:center;"|224 || Rắn lục || Châu Mỹ, châu Phi và đại lục Á-Âu.
|-
| [[Xenopeltidae]] || [[Charles Lucien Bonaparte|Bonaparte]], 1845 || style="text-align:center;"|1 || style="text-align:center;"|2 || Rắn mống || Đông Nam Á từ [[quần đảo Andaman]] và [[quần đảo Nicobar|Nicobar]] về phía đông qua Myanma tới Hoa Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, bán đảo Mã Lai và Đông Ấn tới [[Sulawesi]], cũng như tại Philippines.
|}
 
{|cellspacing=0 cellpadding=2 border=1 style="border-collapse: collapse;"
== Rắn độc ==
|-
[[Tập tin:AD2009Aug07 Natrix natrix 01.jpg|nhỏ|250px|Một con [[rắn cỏ]]]]
|colspan="100%" align="center" {{bgcolor-blue}}|Cận bộ '''[[Scolecophidia]]''' 3 họ
Rắn độc sử dụng nước bọt, chất độc tiết qua những chiếc nanh trong miệng chúng để làm tê liệt hoặc giết con mồi (ngược lại, đa số loài rắn không độc xiết con mồi đến chết). Nọc độc rắn có thể là độc tố thần kinh hoặc độc tố máu. Độc tố thần kinh tấn công hệ thần kinh trong khi độc tố máu tấn công hệ tuần hoàn. Rắn độc gồm một vài họ và không có sự phân chia chính thức dùng trong trong phân loại.
|-
! style="background:#f0f0f0;"|Họ<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Tác giả<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Số chi<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Số loài<ref name="ITIS"/> !! style="background:#f0f0f0;"|Tên thường gọi !! style="background:#f0f0f0;"|Phân bố<ref name="McD99"/>
|-
| [[Anomalepidae]] || [[Edward Harrison Taylor|Taylor]], 1939 || style="text-align:center;"|4 || style="text-align:center;"|15 || Rắn mù nguyên thủy || style="width:40%"|Từ miền nam Trung Mỹ tới tây bắc Nam Mỹ. Các quần thể rời rạc tại đông bắc và đông nam Nam Mỹ.
|-
| [[Leptotyphlopidae]] || [[Leonhard Hess Stejneger|Stejneger]], 1892 || style="text-align:center;"|2 || style="text-align:center;"|87 || Rắn mù thân mảnh || Châu Phi, Tây Á từ Thổ Nhĩ Kỳ tới tây bắc Ấn Độ, trên [[đảo Socotra]], từ tây nam Hoa Kỳ về phía nam qua Mexico và Trung Mỹ tới Nam Mỹ, nhưng không có trong khu vực miền núi cao trong dãy [[Andes]]. Tại Nam Mỹ ven Thái Bình Dương chúng có mặt xa về phía nam tới vùng duyên hải nam Peru, còn ở phía Đại Tây Dương thì xa tới Uruguay và Argentina. Tại khu vực Caribe chúng có mặt tại Bahamas, [[Hispaniola]] và [[Tiểu Antilles]].
|-
| [[Typhlopidae]] || [[Blasius Merrem|Merrem]], 1820 || style="text-align:center;"|6 || style="text-align:center;"|203 || Rắn mù điển hình, rắn giun || Rộng khắp thế giới trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, cụ thể tại châu Phi, Madagascar, châu Á, các đảo trên Thái Bình Dương, nhiệt đới châu Mỹ và tại đông nam châu Âu.
|}
 
==Sinh học==
Rắn độc sử dụng độc tố máu thường có nanh tiết chất độc ở trước miệng, giúp chúng dễ dàng tiêm thẳng chất độc vào nạn nhân. Rắn sử dụng độc tố thần kinh, như loài rắn cây đước độc tính cao, có nanh nằm ở phía sau miệng đồng thời nanh cong về phía sau. Điều này gây khó khăn cho rắn để sử dụng nọc cũng như cho các nhà khoa học muốn lấy chúng.
[[Tập tin:Snake Skeletons.jpg|nhỏ|trái|Khi so sánh, bộ xương của rắn khác biệt rõ nét với bộ xương của phần lớn các loài bò sát khác (như [[rùa]] ở bên phải), được tạo thành gần như hoàn toàn như là một bộ khung xương sườn kéo dài.]]
 
===Bộ Chú thích xương===
Bộ xương của phần lớn các loài rắn chỉ bao gồm sọ, [[xương móng]], cột sống và các [[xương sườn]], mặc dù các loài rắn thuộc nhánh Henophidia vẫn còn các vết tích của khung chậu và các chi sau. Sọ của rắn bao gồm một hộp sọ đặc và hoàn hảo, và nhiều xương khác chỉ gắn vào nó một cách lỏng lẻo, cụ thể là các xương hàm có độ linh động cao, tạo thuận lợi cho việc bắt giữ và nuốt các con mồi to lớn. Các bên trái và phải của hàm dưới chỉ được nối bằng một dây chằng dễ uốn vào các chóp trước, cho phép chúng tách rộng ra, trong khi các chóp sau của các xương hàm dưới nối khớp với [[xương vuông]], tạo thêm tính cơ động. Các xương của hàm dưới và xương vuông cũng có thể thu nhận các rung động phát sinh từ mặt đất<ref>{{cite journal | last1 = Harline | first1 = P H | year = 1971 | title = Physiological basis for detection of sound and vibration in snakes | url = http://jeb.biologists.org/cgi/reprint/54/2/349.pdf | format = pdf | journal = J. Exp. Biol. | volume = 54 | issue = 2| pages = 349–371 }}</ref>. Do các bên của xương hàm có thể di chuyển độc lập với nhau nên khi rắn đặt các quai hàm của nó trên một bề mặt thì nó có thính giác lập thể nhạy cảm giúp nó có thể phát hiện vị trí của con mồi. Lọ trình quai hàm-xương vuông-xương bàn đạp có khả năng phát hiện các rung động ở cấp độ [[angstrom]], mặc cho sự thiếu vắng tai ngoài và cơ chế [[xương nhỏ thính giác]] của [[khớp trở kháng]] được sử dụng ở các động vật có xương sống khác để thu nhận các rung động từ không trung<ref>{{cite journal|url=http://prl.aps.org/abstract/PRL/v100/i4/e048701|title=Auditory Localization of Ground-Borne Vibrations in Snakes|journal=Phys. Rev. Lett.|volume=100|page=048701|year=2008}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.physorg.com/news122123444.html|title=Desert Snake Hears Mouse Footsteps with its Jaw|date=2008-02-13|author=Lisa Zyga|publisher=PhysOrg}}</ref>. Xương móng là một xương nhỏ nằm ở phía sau và trên mặt bụng của sọ, trong khu vực 'cổ', có tác dụng như một bộ phận gắn kết cho các cơ của lưỡi rắn, cũng giống như ở tất cả các [[động vật bốn chân]] khác.
<references />
 
Cột sống của rắn bao gồm khoảng 200 tới 400 (hoặc hơn) [[đốt sống]]. Các đốt sống đuôi là tương đối ít về số lượng (thường không quá 20% tổng số đốt sống) và không có xương sườn, trong khi các đốt sống phần thân đều có 2 xương sườn nối khớp với chúng. Các đốt sống đều có các phần lồi ra cho phép có sự kết nối với các cơ khỏe giúp cho việc di chuyển không cần tới chân. Sự [[tự đứt đuôi]], một đặc trưng ở một số loài thằn lằn nói chung lại không có ở phần lớn các loài rắn<ref>Cogger, H 1993 Fauna of Australia. Vol. 2A Amphibia and Reptilia. Australian Biological Resources Studies, Canberra.</ref>. Sự tự đứt đuôi ở rắn là hiếm thấy và là liên đốt sống, không giống như ở thằn lằn là cơ chế nội đốt sống&mdash;nghĩa là sự ngắt đuôi xảy ra dọc theo một mặt phẳng đứt gãy được xác định trước và có sẵn trên đốt sống<ref>{{cite journal | last1=Arnold | first1=E.N. | doi=10.1080/00222938400770131 | title=Evolutionary aspects of tail shedding in lizards and their relatives | journal=Journal of Natural History | year=1984 | volume=18 | issue=1 | pages=127–169 }}</ref><ref>N. B. Ananjeva và N. L. Orlov (1994) Caudal autotomy in Colubrid snake ''[[Xenochrophis piscator]]'' from Vietnam. Russian Journal of Herpetology 1(2)</ref>.
== Liên kết ngoài ==
{{wikispecies|Serpentes}}
{{Commonscat|Serpentes}}
* [http://www.duoclieu.org/2012/04/ran.html Một số loài rắn làm thuốc]
* [http://www.wildlifesos.org Snake Rescue and Reptile Protection in India]
* [http://www.herp.net Numerous articles from journals on snakes (mainly Australasian)]
* [http://www.itis.usda.gov/servlet/SingleRpt/SingleRpt?search_topic=TSN&search_value=174118 Integrated Taxonomic Information System] Serpentes
* [http://www.embl-heidelberg.de/~uetz/families/taxa.html EMBL Database]
* [http://lancelet.blogspot.com/2006/04/serpent-beguiles.html the Lancelet: "The serpent beguiles?"] Explanation of the current controversy over snake origins in the Cretaceous
* [http://www.itmonline.org/arts/snakes.htm The medicinal use of snakes in China]
* [http://www.survivaliq.com/survival/poisonous-snakes-and-lizards.htm Poisonous snakes and lizards]
* [http://www.surviveoutdoors.com/reference/snakes/snake-bites.asp Snake Bites] - Outdoor emergency treatment from Survive Outdoors.
* [http://www.venomdoc.com/LD50/LD50men.html Snake venom LD50 values]
* [http://redtailboa.net/modules.php?name=Sections&op=listarticles&cid=3 - Care of Snakes as pets]
* {{NCBI|8570}}
* {{Eol|2815988}}
 
Ở một số loài rắn, đáng chú ý là các họ [[Boidae]] và [[Pythonidae]], có các vết tích của các chi sau dưới dạng một cặp [[cựa khung chậu]]. Các phần thò ra nhỏ và giống như vuốt này ở mỗi bên của [[lỗ huyệt]] là phần bên ngoài của phần xương chi sau dạng vết tích, bao gồm các phần sót lại của [[xương chậu]] và [[xương đùi]].
[[Thể loại:Rắn| ]]
 
===Nội tạng===
{{Liên kết bài chất lượng tốt|no}}
{{snake anatomy imagemap}}
{{Liên kết chọn lọc|nl}}
Tim rắn được bao bọc trong một túi, gọi là ''[[màng ngoài tim]]'', nằm ở chỗ rẽ đôi của [[phế quản]]. Tuy nhiên tim rắn có thể di chuyển vòng quanh do không có [[cơ hoành]]. Sự điều chỉnh này bảo vệ tim khỏi bị tổn thương khi con mồi nuốt vào là to lớn và trượt dọc theo [[thực quản]]. [[Lá lách]] gắn với [[túi mật]] và [[tụy]], giúp lọc máu. [[Tuyến ức]] nằm trong mô mỡ phía trên tim, chịu trách nhiệm sản sinh các tế bào miễn dịch trong máu. Hệ tim mạch của rắn cũng là độc đáo ở chỗ có một hệ thống cổng thận, trong đó máu từ đuôi rắn di chuyển qua thận trước khi trở về tim<ref name="Mader"/>.
{{Liên kết chọn lọc|zh}}
 
[[Phổi]] trái dạng vết tích thường là nhỏ hoặc không có, do cơ thể hình ống của rắn đòi hỏi mọi cơ quanphải dài và mỏng<ref name="Mader">{{Cite journal | last = Mader | first = Douglas | title = Reptilian Anatomy | journal = Reptiles | volume =3 | issue =2 | pages =84–93 | date = tháng 6 năm 1995}}</ref>. Ở phần lớn các loài rắn chỉ phổi phải là hoạt động. Phổi phải này bao gồm hai phần: phần trước có mạch máu dẫn tới, còn phần sau không có tác dụng trong trao đổi khí<ref name="Mader"/>. 'Phổi dạng túi' này được sử dụng cho các mục đích thủy tĩnh để điều chỉnh sức nổi ở một số loài rắn thủy sinh và chức năng của nó đối với các loài rắn sống trên cạn thì vẫn chưa rõ<ref name="Mader"/>. Nhiều cơ quan có cặp đôi, như [[thận]] hay [[cơ quan sinh dục]], được sắp xếp xen kẽ trong cơ thể, với một bộ phận (‘trái’ hay ‘phải’) của cơ quan này nằm ngay phía trước bộ phận còn lại (‘phải’ hay ‘trái’) của chính cơ quan đó<ref name="Mader"/>. Rắn không có [[hạch bạch huyết]]<ref name="Mader"/>.
 
===Kích thước===
[[Tập tin:Leptotyphlops carlae.jpg|nhỏ|phải|Rắn giun Barbados (''[[Leptotyphlops carlae]]'') trưởng thành, trên đồng xu ¼ đô la Mỹ.]]
Loài trăn đã tuyệt chủng ''[[Titanoboa|Titanoboa cerrejonensis]]'' dài tới 12–15 m (39–49 ft). Trong khi đó, trong số loài rắn còn sinh tồn thì loài được coi là dài nhất là [[trăn gấm]] (''Python reticulatus'') với chiều dài lên tới khoảng 9 m (30 ft), còn loài được coi là nặng nhất là [[trăn anaconda xanh]] (''Eunectes murinus'') dài khoảng 7,5 m (25 ft)<ref name="CTV">[http://www.ctv.ca/servlet/ArticleNews/story/CTVNews/20090204/snake_biggest_090204/20090204?hub=SciTech CTV: Ancient, gargantuan snakes ate crocs for breakfast]</ref> và nặng tới 97,5 kg <ref>{{cite thesis |author=Jesús Antonio Rivas |year=2000 |title=The life history of the green anaconda (''Eunectes murinus''), with emphasis on its reproductive Biology |degree=Doctor of Philosophy |publisher=[[Đại học Tennessee]] |url=http://www.anacondas.org/diss/disser.pdf |format=pdf}}</ref>.
 
Ngược lại, ở đầu kia của dải kích thước, loài rắn nhỏ nhất còn sinh tồn là [[rắn giun Barbados]] (''Leptotyphlops carlae''), với chiều dài chỉ khoảng 10 cm (4 inch)<ref>{{cite journal | url = http://www.mapress.com/zootaxa/2008/f/zt01841p030.pdf | title=At the lower size limit in snakes: two new species of threadsnakes (Squamata: Leptotyphlopidae: Leptotyphlops) from the Lesser Antilles |author=S. Blair Hedges |journal=Zootaxa |volume=1841 |pages=1–30 |date=4-8-2008 |accessdate=7-8-2012 |format=pdf}}</ref>. Phần lớn các loài rắn là động vật tương đối nhỏ, dài khoảng 1 m (3 ft)<ref>Boback S. M.; Guyer C. (2003). "Empirical Evidence for an Optimal Body Size in Snakes". Evolution 57 (2): 345. {{doi|10.1554/0014-3820(2003)057[0345:EEFAOB]2.0.CO;2}}. ISSN 0014-3820. {{PMID|12683530}}.</ref>.
 
[[Tập tin:Ptyas gab fbi.png|nhỏ|phải|Biểu đồ lấy từ Fauna of British India của [[G.A. Boulenger]] (1890) minh họa thuật ngữ học về các tấm khiên trên đầu rắn.]]
 
===Da===
{{main|Vảy rắn}}
[[Da]] rắn được che phủ trong một lớp vảy sừng. Trái với ý niệm phổ biến cho rằng da rắn nhớt, có lẽ là do sự nhầm lẫn rắn với giun, trên thực tế da rắn nhẵn nhụi và khô. Phần lớn các loài rắn sử dụng các vảy bụng chuyên biệt hóa để di chuyển, bám lấy các bề mặt. Các vảy trên cơ thể rắn có thể là nhẵn nhụi, có gờ hay dạng hạt. Các mí mắt của rắn là các vảy sừng trong suốt, giống như "đeo kính", và các vảy này luôn luôn đóng kín, vì thế mà có thành ngữ “Thao láo như mắt [[rắn ráo]]”.
 
Sự lột bỏ lớp vảy ở rắn gọi là ''[[lột da]]''. Trong trường hợp lột da ở rắn thì nguyên lớp da ngoài cùng bị lột bỏ<ref name = "Smith1_30">Smith Malcolm A. ''The Fauna of British India, Including Ceylon and Burma''. Vol I, Loricata and Testudines. tr. 30.</ref>. Các vảy của rắn không phải là rời rạc mà là sự mở rộng của lớp biểu bì—vì thế chúng không bị lột tách biệt mà như là một lớp ngoài cùng hoàn hảo trong mỗi lần lột xác, giống như việc người ta lột mặt trong của cái tất ra bên ngoài<ref name="RSSlimy">[http://www.szgdocent.org/resource/rr/c-slimy.htm Are snakes slimy?] tại [http://www.szgdocent.org/ Singapore Zoological Garden's Docent]. Tra cứu 07-08-2012.</ref>.
 
Hình dáng và số lượng vảy trên đầu, lưng và bụng thường là đặc trưng và được sử dụng vào mục đích phân loại. Các vảy được đặt tên chủ yếu theo vị trí của chúng trên cơ thể. Trong nhóm rắn "bậc cao" ([[Caenophidia]]), các vảy bụng rộng bản và các hàng vảy lưng tương ứng với các đốt sống, cho phép các nhà khoa học có thể đếm số lượng đốt sống mà không cần phải mổ xẻ.
 
[[Tập tin:Diamond-python moult eye-scales.JPG|nhỏ|300px|phải|Vảy mắt thấy rõ trong lớp da lột của con [[trăn kim cương]](''Morelia spilota spilota'').]]
Mắt rắn được che phủ bằng vảy trong suốt chứ không phải [[mí mắt]] có thể chuyển động. Vì thế mắt rắn luôn luôn mở, còn để ngủ thì [[võng mạc]] có thể khép lại hoặc rắn giấu đầu vào phần thân đã cuộn tròn.
 
====Lột da====
Sự lột da ở rắn phục vụ cho một loạt các chức năng. Trước hết,lớp da ngoài cũ kỹ và đã bị mòn được thay thế; thứ hai, nó giúp loại bỏ các động vật ký sinh như ve hay bét. Việc làm mới lớp da nhờ lột xác được cho là giúp đỡ cho quá trình phát triển ở một số động vật như côn trùng; tuy nhiên điều này có đúng như vậy hay không ở rắn thì vẫn là điều còn gây tranh cãi<ref name="RSSlimy"/><ref name="ZooPax3">[http://whozoo.org/ZooPax/ZPScales_3.htm Part III: Scales of Lizards and Snakes] tại [http://whozoo.org/ WhoZoo]. Tra cứu 7-8-2012.</ref>
[[Tập tin:Nerodia sipedon shedding.JPG|nhỏ|trái|Một con rắn đang lột da.]]
 
Sự lột da xảy ra theo chu kỳ trong suốt cuộc đời rắn. Trước khi lột, rắn ngừng ăn uống và thường di chuyển tới hay ẩn nấp tại nơi an toàn. Ngay trước khi lột, lớp da ngoài trở nên xỉn màu và khô và hai mắt thì mờ đục hay xám xỉn. Mặt trong của lớp da cũ hóa lỏng làm cho lớp da cũ tách ra khỏi lớp da mới nằm ngay dưới nó. Sau vài ngày thì mắt trong trở lại và con rắn "trườn" ra khỏi lớp da cũ của nó. Lớp da cũ đứt ở phần gần miệng và rắn lách ra ngoài, hỗ trợ quá trình lột bỏ bằng cách cọ xát vào các bề mặt thô nhám. Trong nhiều trường hợp thì lớp da cũ bị lột ngược dọc theo thân từ đàu tới đuôi thành một tấm, giống như sự lột tất ngược từ trong ra ngoài. Lớp da mới, lớn hơn và sáng màu hơn đã được hình thành ngay phía dưới<ref name="RSSlimy"/><ref name="GenSnakeInfo">[http://www.sdgfp.info/Wildlife/Snakes/SnakeInfo.htm General Snake Information] tại [http://www.sdgfp.info/ South Dakota Game, Fish and Parks]. Tra cứu 7-8-2012.</ref>.
 
Những con rắn già chỉ lột da 1 tới 2 lần mỗi năm, nhưng những con rắn non còn đang lớn thì có thể lột da tới 4 lần mỗi năm<ref name = "GenSnakeInfo"/>. Lớp da bị loại bỏ giữ nguyên vẹn dấu vết của kiểu vảy, và thường thì có thể dùng nó để nhận dạng loài rắn đó nếu như lớp da bị loại bỏ này còn giữ được khá nguyên vẹn<ref name="RSSlimy"/>. Sự lột da theo chu kỳ này là lý do chính để biến rắn thành một biểu tượng của điều trị bệnh tật và [[y học]], như trong biểu tượng [[gậy Asclepius]] (xà trượng)<ref name=AIM>{{cite journal|last=Wilcox|first=Robert A|last2=Whitham|first2= Emma M|title=The symbol of modern medicine: why one snake is more than two|date=15-4-2003|pages=673–7|issue=8|volume=138
|url=http://www.annals.org/cgi/content/full/138/8/673|journal=Annals of Internal Medicine|accessdate=7-8-2012|pmid = 12693891}}</ref>
 
===Cảm nhận===
;Thị lực
: Thị lực của các loài rắn nói chung không đồng nhất, dao động từ mức chỉ đủ phân biệt sáng tối cho tới mức có thị lực cao, nhưng xu hướng chung là thị lực của chúng mặc dù không thực sự sắc bén nhưng là đủ để cho phép chúng có thể theo dõi các chuyển động<ref>[http://www.petplace.com/reptiles/reptile-senses-understanding-their-world/page1.aspx Reptile Senses: Understanding Their World].</ref>. Nói chung, thị lực của rắn tốt nhất ở các loài sống trên cây và kém nhất ở các loài đào bới. Một vài loài rắn, như rắn roi châu Á (chi ''[[Ahaetulla]]''), có [[thị giác hai mắt]], với cả hai mắt có khả năng tập trung vào cùng một điểm. Phần lớn các loài rắn nhìn tập trung vào một chỗ nào đó bằng cách di chuyển [[thủy tinh thể]] tới và lui so với [[võng mạc]], trong khi ở các nhóm [[động vật có màng ối]] khác thì thủy tinh thể bị giãn ra.
;Mùi
: Rắn sử dụng mùi để theo dõi con mồi của nó. Rắn ngửi mùi bằng cách dùng [[lưỡi chẻ]] của nó để thu thập các hạt có trong không trung, sau đó chuyển chúng cho [[cơ quan xương lá mía-mũi]] hay ''cơ quan Jacobson'' trong [[miệng]] để kiểm tra<ref name="Cogger91_180">Cogger(1991), tr. 180.</ref>. Cái lưỡi chẻ đôi giúp cho rắn đồng thời cảm nhận trực tiếp cả mùi lẫn vị<ref name="Cogger91_180"/>. Các loài rắn luôn luôn duy trì lưỡi ở trạng thái chuyển động, lấy mẫu các hạt từ không khí, đất và nước, phân tích các hóa chất tìm thấy và xác định sự hiện diện của con mồi hay kẻ săn mồi trong môi trường khu vực. Ở các loài rắn sống trong nước, như [[trăn anaconda]] (''Eunectes''), lưỡi hoạt động có hiệu quả ở dưới nước<ref name="Cogger91_180"/>.
[[Tập tin:wiki snake eats mouse.jpg|nhỏ|phải|275px|Hình ảnh ghi nhiệt của một con rắn đang ăn con chuột.]]
;Nhạy cảm rung động
: Phần cơ thể tiếp xúc trực tiếp với mặt đất của rắn rất nhạy với các rung động; vì thế rắn có thể cảm nhận thấy các con vật khác đang tới gần bằng cách phát hiện các rung động nhẹ nhất trong không khí hay trên mặt đất<ref name="Cogger91_180"/>.
;Nhạy cảm nhiệt
: Các loài rắn lục, trăn họ Pythonidae và một vài loài trăn họ Boidae có các [[cảm nhận nhiệt ở rắn|thụ thể nhạy nhiệt]] trong các rãnh sâu nằm giữa lỗ mũi và mắt, mặc dù một vài loài có các hố môi nằm trên môi trên của chúng ngay phía dưới các lỗ mũi (phổ biến ở các loài trăn họ Pythonidae), cho phép chúng "nhìn thấy" nhiệt bức xạ của các con mồi là [[động vật có vú]] với máu nóng<ref name="Cogger91_180"/>.
 
===Nọc===
{{see also|Nọc rắn}}
[[Tập tin:Red milk snake.JPG|nhỏ|[[Rắn sữa]] (''Lampropeltis triangulum'') vô hại thường bị nhầm thành [[rắn san hô]], những loài rắn với nọc độc chết người.]]
Rắn hổ, rắn lục và các loài họ hàng gần của chúng sử dụng [[nọc]] để làm tê liệt hay giết chết con mồi. Nọc của chúng thực tế là [[nước bọt]] đã biến đổi, được tiết ra theo các [[nọc rắn|răng nọc]]<ref name="Meh87"/>{{Rp|243}}. Các răng nọc của các loài rắn có nọc độc 'bậc cao' như rắn lục hay rắn hổ là các răng rỗng để tiêm nọc hiệu quả hơn, trong khi răng nọc của các loài rắn với răng nọc ở phía sau như [[rắn cây châu Phi]] (''Dispholidus typus'') đơn giản chỉ là một khía rãnh trên rìa sau để nọc chảy vào vết thương. Nọc rắn là đặc trưng chủ yếu dành cho săn mồi—vai trò của nó trong phòng vệ chỉ là thứ cấp<ref name="Meh87"/>{{Rp|243}}.
 
Nọc, cũng giống như các loại dịch tiết dạng nước bọt khác, là chất tiền tiêu hóa để bắt đầu sự phân tách thức ăn thành các hợp chất hòa tan, hỗ trợ cho sự tiêu hóa. Ngay cả những cú cắn của rắn không có nọc độc (giống như của cú cắn của bất kỳ động vật nào) đều gây ra tổn thương mô<ref name="Meh87"/>{{Rp|209}}.
 
Một số loài chim, thú hay rắn (chẳng hạn như [[Chi Rắn vua|rắn vua]] (''Lampropeltis'')) nhất định với con mồi là những con rắn có nọc đều phát triển khả năng đề kháng hay thậm chí là miễn nhiễm với một số loại nọc độc nhất định<ref name="Meh87"/>{{Rp|243}}. Các loài rắn có nọc nằm trong 3-4 [[họ (sinh học)|họ]] rắn, nhưng chúng không và không thể hợp lại thành một nhóm phân loại chính thức nào để dùng trong phân loại học.
 
Thuật ngữ '''rắn độc''' đa phần là thiếu chính xác. Chất độc (hay độc tố) là những chất được hít hay nuốt vào, trong khi nọc được tiêm vào<ref name="Freiberg84_125"/>. Tuy nhiên ở đây vẫn có 2 ngoại lệ: [[Chi Rắn hoa cỏ|Rắn hoa cỏ]] (''Rhabdophis'') cô lập các chất độc từ những con cóc mà nó ăn, sau đó tiết các chất độc này từ các tuyến gáy để ngăn cản những kẻ săn mồi, và một quần thể nhỏ [[Chi Rắn garter|rắn garter]] (''Thamnophis'') ở Oregon duy trì đủ lượng độc tố trong gan của chúng từ cá cóc/sa giông ([[Pleurodelinae]]) mà chúng ăn vào để tự bản thân trở thành đủ độc đối với những kẻ săn mồi nhỏ bé tại khu vực này (như quạ hay cáo)<ref name="Freiberg84_123">Freiberg (1984), tr. 123.</ref>.
 
Nọc rắn là các hỗn hợp phức tạp của các [[protein]], và được lưu trữ trong các tuyến độc ở phía sau đầu<ref name="Freiberg84_123"/>. Ở tất cả các loài rắn có nọc, các tuyến này đổ thông qua các ống dẫn vào các răng rỗng hay răng có khía ở hàm trên<ref name="Meh87"/>{{Rp|243}}<ref name="Freiberg84_125">Freiberg (1984), tr. 125.</ref>. Các protein này có thể là hỗn hợp của các [[độc tố thần kinh]] (tấn công hệ thần kinh), [[độc tố hoại máu]] (tấn công hệ tuần hoàn), [[độc tố tế bào]], [[bungarotoxin]] (độc tố cạp nia) và nhiều loại độc tố khác có tác động tới cơ thể theo các cách thức khác nhau<ref name="Freiberg84_125"/>. Gần như tất cả các loại nọc rắn đều chứa ''[[hyaluronidaza]]'', một enzym đảm bảo sự khuếch tán nhanh của nọc<ref name="Meh87"/>{{Rp|243}}.
 
Các loại rắn có nọc sử dụng độc tố hoại máu (hemotoxin) thường có các răng nọc ở phía trước miệng chúng, giúp chúng dễ dàng hơn trong việc tiêm nọc vào nạn nhân của chúng<ref name="Freiberg84_125"/>. Một số loài rắn sử dụng độc tố thần kinh (neurotoxin), như [[rắn rào cây]] (''Boiga dendrophila'') có các răng nọc ở phía sau miệng chúng với các răng này uốn cong ngược về phía sau<ref name="Freiberg84_126">Freiberg (1984), tr. 126.</ref>. Điều này gây khó khăn cho cả con rắn trong việc sử dụng nọc của nó lẫn cho các nhà khoa học trong việc lấy nọc rắn<ref name="Freiberg84_125"/>. Tuy nhiên, các loài rắn hổ, như [[rắn hổ mang]] hay [[Chi Cạp nia|cạp nia]] lại là ''[[bộ xương rắn|xẻ khía trước]]''— ở hàm trên của chúng có răng nọc rỗng trỏ xuống phía dưới nhưng không thể dựng đứng lên để hướng về phía trước miệng của chúng, và không thể "đâm" như rắn lục/rắn vipe. Chúng phải thực sự cắn nạn nhân<ref name="Meh87"/>{{Rp|242}}.
 
Gần đây người ta đề xuất cho rằng tất cả các loài rắn đều có thể là rắn có nọc ở một mức độ nào đó, với các loài rắn vô hại có nọc yếu và không có răng nọc<ref name="Fry_2006_earlyevolution">{{Cite journal |last = Fry |first = Brian G |last2 = Vidal |first2 = Nicholas |last3 = Norman |first3 = Janette A. |last4 = Vonk |first4 = Freek J. |last5 = Scheib |first5 = Holger |last6 = Ramjan |first6 = Ryan |last7 = Kuruppu |first7 = Sanjaya |title = Early evolution of the venom system in lizards and snakes |journal = Nature (Letters) |volume = 439 |pages = 584–588 |year = 2006 |doi = 10.1038/nature04328 |pmid = 16292255 |last1 = Fry |first1 = BG |last8 = Fung |first8 = K |last9 = Hedges |first9 = SB |issue = 7076}}</ref>. Phần lớn các loài rắn hiện tại được gán nhãn “không độc” có thể vẫn được coi là vô hại theo thuyết này, do chúng hoặc là không có phương thức truyền nọc hoặc là không đủ khả năng truyền một lượng nọc đủ để gây nguy hiểm cho con người. Thuyết này đưa ra định đề rằng rắn có thể đã tiến hóa từ một tổ tiên chung là động vật dạng thằn lằn có nọc—và rằng các loài thằn lằn có nọc như [[thằn lằn độc Gila]] (''Heloderma suspectum''), [[thằn lằn độc Mexico]] (''Heloderma horridum''), [[Họ Kỳ đà|kỳ đà]] (Varanidae), cũng như [[thương long]] đã tuyệt chủng cũng có thể đã chuyển hóa. Chúng chia sẻ cùng một nhánh có nọc này với nhiều loài bò sát hai cung khác trong nhánh [[Sauria]].
 
Các loài rắn có nọc độc về cơ bản được phân loại trong 2 họ:
* [[Elapidae]] – Họ Rắn hổ, bao gồm [[Chi Rắn hổ mang|rắn hổ mang]] (''Naja''), [[rắn hổ mang chúa]] (''Ophiophagus hannah''), [[cạp nong]] (''Bungarus fasciatus''), [[Chi Cạp nia|cạp nia]] (''Bungarus'' spp.), [[rắn mamba]] (''Dendroaspis'' spp.), [[Chi Rắn đầu đồng Úc|rắn đầu đồng Úc]] (''Austrelaps''), [[rắn biển]] (Hydrophiinae), và [[rắn san hô]] (các chi ''Leptomicrurus'', ''Micruroides'', ''Micrurus''), [[Chi Rắn lá khô|rắn lá khô]] (''Calliophis'')<ref name="Freiberg84_126"/>.
* [[Viperidae]] – Họ Rắn lục, bao gồm [[Chi Rắn lục|rắn lục]] (''Trimeresurus'' spp.), [[rắn lục đầu bạc]] (''Azemiops feae''), [[Phân họ Rắn vipe|rắn vipe]] (Viperinae), [[rắn đuôi chuông]] (các chi ''Crotalus'', ''Sistrurus''), [[rắn đầu đồng Mỹ]] (''Agkistrodon contortrix''), [[rắn miệng bông]] (''Agkistrodon piscivorus'') và [[rắn chúa bụi]] (''Lachesis'' spp.)<ref name="Freiberg84_126"/>.
 
Họ thứ ba chứa một số loài rắn ''răng nọc sau'':
* [[Colubridae]] – Họ Rắn nước, bao gồm một số loài như [[rắn cây châu Phi]] (''Dispholidus typus''), [[chi Rắn roi|rắn roi]] (''Ahaetulla'' spp.), [[Chi Rắn rào|rắn rào]] (''Boiga'' spp.), mặc dù không phải mọi loài trong họ [[Colubridae]] đều là rắn độc<ref name="Meh87"/>{{Rp|209}}<ref name="Freiberg84_126"/>.
 
==Tập tính==
===Kiếm ăn và thức ăn===
[[Tập tin:Snake eating mouse.jpg|nhỏ|trái|Con rắn đang ăn một con chuột.]]
[[Tập tin:Carpet snake.jpg|nhỏ|phải|[[Trăn thảm]] (''Morelia spilota'') đang quấn và nuốt một con gà.]]
[[Tập tin:Eierschlange frisst Zwergwachtelei.jpg|nhỏ|phải|[[Rắn ăn trứng châu Phi]] (''Dasypeltis'').]]
 
Tất cả các loài rắn đều là động vật chỉ toàn ăn thịt, với thức ăn của chúng là các động vật nhỏ như thằn lằn, chim, thú nhỏ, cá, côn trùng, ốc, các loài rắn khác cũng như trứng của các loại con mồi này<ref name="Meh87"/>{{Ref|81}}<ref name="Sanchez"/><ref name="Bebler79_581">Behler (1979) tr. 581.</ref>. Do rắn không thể cắn hay xé thức ăn ra thành từng miếng nên chúng phải nuốt chửng nguyên cả con mồi. Kích thước cơ thể rắn có ảnh hưởng lớn tới tập tính ăn uống của nó. Các loài rắn nhỏ hơn thì ăn các con mồi nhỏ hơn. Chẳng hạn, những con trăn non có thể khởi đầu công việc ăn uống chỉ với những con thằn lằn hay chuột và dần dần tiến tới việc ăn những con hươu hay linh dương nhỏ cũng như trưởng thành.
 
Quai hàm của rắn là một cấu trúc phức tạp. Trái với niềm tin thông thường rằng rắn có thể bị trật khớp các quai hàm của nó, trên thực tế rắn có hàm dưới rất linh hoạt, hai nửa của nó không bị gắn cứng nhắc, với một loạt các khớp nối khác trong [[sọ rắn]], cho phép rắn có thể há miệng đủ to để nuốt toàn bộ con mồi, ngay cả khi con mồi này có đường kính lớn hơn bề rộng cơ thể của rắn<ref name="Bebler79_581">Bebler (1979) tr. 581.</ref>. Chẳng hạn, [[rắn ăn trứng châu Phi]] (''Dasypeltis'') có các quai hàm rất linh hoạt, thích nghi để ăn những quả trứng to hơn cả đường kính đầu nó<ref name="Meh87"/>{{Rp|81}}. Các loài rắn này không có [[răng]], nhưng có các chỗ lồi ra trên rìa trong của [[cột sống]], được chúng sử dụng để bóp vỡ vỏ trứng khi nó được nuốt vào<ref name="Meh87"/>{{Rp|81}}.
 
Trong khi phần lớn các loài rắn ăn đủ mọi loại con mồi động vật thì vẫn có những loài chỉ chuyên ăn một loại thức ăn nhất định. [[Rắn hổ mang chúa]] và rắn bandy-bandy (''Vermicella annulata'') ở Australia chỉ ăn thịt các loài rắn khác. ''[[Pareas iwesakii]]'' và các loài rắn ăn ốc khác trong phân họ [[Pareatinae]] của họ [[Colubridae]] có nhiều răng ở mé phải miệng chúng hơn ở mé trái do vỏ ốc mà chúng ăn thường xoắn theo chiều kim đồng hồ<ref name="Meh87"/>{{Rp|184}}<ref>{{cite journal | last1 = Hori | first1 = Michio | last2 = Asami | first2 = Takahiro | last3 = Hoso | first3 = Masaki | title = Right-handed snakes: convergent evolution of asymmetry for functional specialization | doi = 10.1098/rsbl.2006.0600 | pmc = 2375934 | pmid = 17307721 | journal = Biology Letters | year = 2007 | volume = 3 | issue = 2 | pages=169–72 }}</ref>.
 
Một số loài rắn có cú cắn chứa nọc độc được chúng dùng để giết chết con mồi trước khi ăn thịt nó<ref name="Bebler79_581"/><ref>Freiberg (1984), tr. 125–127.</ref>. Một số loài rắn khác lại giết con mồi bằng cách quấn và siết chặt<ref name="Bebler79_581"/>, trong khi có những loài chỉ đơn giản là nuốt sống toàn bộ con mồi<ref name="Meh87"/>{{Rp|81}}<ref name="Bebler79_581"/>.
 
Sau khi ăn, rắn chuyển sang trạng thái nghỉ trong khi quá trình [[tiêu hóa]] diễn ra<ref name="Rosenfeld_11">Rosenfeld (1989), tr. 11.</ref>. Tiêu hóa là một hoạt động mãnh liệt, đặc biệt sau khi nuốt con mồi lớn. Ở những loài chỉ thỉnh thoảng mới ăn thì toàn bộ [[ruột]] co nhỏ lại giữa các bữa ăn để tiết kiệm năng lượng. Hệ tiêu hóa sau đó sẽ 'phình to' tới sức chứa tối đa trong vòng 48 giờ sau khi ăn con mồi. Là [[động vật ngoại nhiệt]] (“máu lạnh”), nhiệt độ môi trường xung quanh có vai trò lớn trong sự tiêu hóa của rắn. Nhiệt độ lý tưởng đối với rắn trong quá trình tiêu hóa là khoảng 30 °C (86 °F). Năng lượng [[trao đổi chất]] trong sự tiêu hóa của rắn nhiều tới mức như ở [[rắn đuôi chuông Mexico]] (''Crotalus durissus'') thì nhiệt độ bề mặt cơ thể tăng lên tới 1,2 °C (2,2 °F) trong quá trình tiêu hóa<ref>{{cite journal | year = 2004 | last1 = Tattersall | url = http://jeb.biologists.org/cgi/content/abstract/207/4/579 | first1 = GJ | last2 = Milsom | first2 = WK | last3 = Abe | first3 = AS | last4 = Brito | first4 = SP | last5 = Andrade | first5 = DV | title =The thermogenesis of digestion in rattlesnakes | journal =Journal of Experimental Biology |volume=207 | pmid = 14718501 | issue = Pt 4 | pages =579–585 | publisher =The Company of Biologists | accessdate =2006-05-26 | doi = 10.1242/jeb.00790}}</ref>. Vì điều này, một con rắn bị quấy nhiễu ngay sau khi ăn thường sẽ nôn con mồi ra để có thể thoát khỏi mối đe dọa mà nó đã nhận thấy được. Khi không bị quấy nhiễu thì quá trình tiêu hóa có hiệu quả cao nhất, với các enzym tiêu hóa của rắn hòa tan và hấp thụ mọi thứ, ngoại trừ lông và móng vuốt của con mồi bị bài tiết ra ngoài dưới dạng chất thải.
 
===Vận động===
Không có chân không gây ra cản trở nào đối với sự vận động của rắn. Chúng đã phát triển một vài cách thức vận động khác nhau để giải quyết vấn đề trong từng môi trường cụ thể. Không giống như các dáng đi của các động vật có chân, là thứ tạo thành một thể liên tục, mỗi cách thức vận động của rắn là rời rạc và khác biệt với các cách thức còn lại; các chuyển tiếp giữa các cách thức là đột ngột<ref name="Cogger91_175">Cogger(1991), tr. 175.</ref><ref name = "Gray">{{Cite journal | last = Gray | first = J. | title = The mechanism of locomotion in snakes | journal = Journal of experimental biology | year = 1946 | volume = 23 | issue = 2 | pages= 101–120 | pmid = 20281580}}</ref>.
 
====Chuyển động sóng ngang====
{{main|Vận động ngoằn ngoèo}}
Chuyển động sóng ngang là cách thức duy nhất trong vận động trong môi trường nước, và cũng là cách thức vận động trên cạn phổ biến nhất<ref name = "Gray"/>. Trong cách thức này, cơ thể rắn lần lượt uốn cong sang trái và sang phải, tạo ra một chuỗi các “sóng” chuyển động về phía sau<ref name="Cogger91_175"/>. Trong khi kiểu di chuyển này có vẻ là nhanh, nhưng hiếm khi thấy rắn di chuyển nhanh hơn 2 lần chiều dài cơ thể của nó mỗi giây, thường là nhỏ hơn thế<ref name = "Hekrotte">{{Cite journal | last = Hekrotte | first = Carlton | title = Relations of Body Temperature, Size, and Crawling Speed of the Common Garter Snake, Thamnophis s. sirtalis | journal = Copeia | year = 1967 | volume = 23 | issue = 4 | pages= 759–763 | doi = 10.2307/1441886 | jstor = 1441886}}</ref>. Cách thức di chuyển này có cùng một tiêu hao năng lượng ròng (lượng calo tiêu hao trên mỗi mét di chuyển) như kiểu chạy của những con thằn lằn có cùng khối lượng<ref name = "Walton">{{Cite journal | last = Walton | first = M. | last2 = Jayne | first2 = B.C. | last3 = Bennett | first3 = A.F. | title = The energetic cost of limbless locomotion | journal = Science | year = 1967 | volume = 249 | issue = 4968 | pages= 524–527 | doi = 10.1126/science.249.4968.524 | pmid = 17735283 }}</ref>.
 
=====Trên cạn=====
Chuyển động sóng ngang trên cạn là cách thức vận động trên cạn phổ biến nhất đối với phần lớn các loài rắn<ref name="Cogger91_175"/>. Trong cách thức này, các sóng chuyển động về phía sau đẩy vào các tiếp điểm trong môi trường, như các hòn đá, các cành cây hay các chỗ mấp mô trên mặt đất v.v.<ref name="Cogger91_175"/>. Mỗi vật thể trong môi trường này tới lượt mình lại sinh ra một phản lực hướng về phía trước và về phía đường trung bình của con rắn, tạo ra lực đẩy về phía trước trong khi các thành phần ngang bị triệt tiêu<ref name = "Gray_lissman"/>. Vận tốc của di chuyển này phụ thuộc vào mật độ các điểm đẩy trong môi trường, trong khi mật độ trung bình khoảng 8 dọc theo chiều dài thân rắn là lý tưởng<ref name = "Hekrotte"/>. Vận tốc truyền sóng chính xác bằng vận tốc của con rắn, và kết quả là mọi điểm trên thân rắn đi theo đường của điểm ngay trước nó, cho phép con rắn di chuyển qua thảm thực vật rất rậm rạp hay các khe hở nhỏ<ref name = "Gray_lissman">{{Cite journal | last = Gray | first = J | last2 = H.W. | first2 = H | title = Kinetics of locomotion of the grass snake | journal = Journal of experimental biology | year = 1950 | volume = 26 | issue = 4 | pages= 354–367 | url = http://jeb.biologists.org/cgi/content/abstract/26/4/354}}</ref>.
 
=====Dưới nước=====
{{main|Rắn biển}}
[[Tập tin:Banded Sea Snake-jonhanson.jpg|nhỏ|Rắn đẻn sọc, ''[[Laticauda|Laticauda sp]]''.]]
Khi bơi, các sóng trở nên lớn hơn khi chúng di chuyển xuongs phía dưới thân rắn, và tốc độ truyền sóng về phía sau nhanh hơn tốc độ con rắn di chuyển về phía trước<ref name = "Gray2">{{Cite journal | last = Gray | first = J | last2 = Lissman | title = Undulatory propulsion | journal = Quarterly Journal of Microscopical Science | year = 1953 | volume = 94 | pages= 551–578 }}</ref>. Lực đẩy được sinh ra nhờ sự đẩy của thân rắn vào nước, thu được sự trượt được quan sát thấy. Mặc cho các điểm tương đồng tổng thể, các nghiên cứu chỉ ra rằng kiểu kích hoạt cơ trong môi trường nước là khác hẳn khi so với chuyển động sóng ngang trên cạn, và điều đó biện minh cho việc gọi chúng là các cách thức tách biệt<ref name = "Jayne1">{{Cite journal | last = Jayne | first = B.C. | title = Muscular mechanisms of snake locomotion: an electromyographic study of lateral undulation of the Florida banded water snake (Nerodia fasciata) and the yellow rat snake (Elaphe obsoleta) | journal = Journal of Morphology | year = 1988 | volume = 197 | pages= 159–181 | doi = 10.1002/jmor.1051970204 | pmid = 3184194 | last1 = Jayne | first1 = BC | issue = 2 }}</ref>. Tất cả các loài rắn đều có thể bò theo kiểu lượn sóng ngang về phía trước (với các sóng di chuyển về phía sau), nhưng chỉ có rắn biển mới có kiểu di chuyển đảo ngược (di chuyển về phía sau với các sóng di chuyển về phía trước)<ref name = "Cogger91_175"/>.
 
====Uốn lượn nghiêng====
{{see also|Uốn lượn nghiêng}}
[[Tập tin:Crotalus scutulatus 03.jpg|nhỏ|trái|[[Rắn đuôi chuông Mojave]] (Crotalus scutulatus) đang uốn lượn nghiêng.]]
Kiểu di chuyển thường được các loài rắn trong siêu họ Colubroidea (các họ [[Colubridae]], [[Elapidae]] và [[Viperidae]]) thực hiện khi phải di chuyển trong môi trường không có các điểm mấp mô để đẩy vào (trình diễn kiểu chuyển động sóng ngang là không thể), chẳng hạn như trên nền bùn trơn tuột hay trên cồn cát. Uốn lượn nghiêng là dạng biến đổi của chuyển động sóng ngang, trong đó tất cả các đoạn thân hướng theo cùng một hướng vẫn tiếp xúc với mặt nền trong khi các đoạn thân khác được nâng lên, tạo ra kiểu chuyển động "lăn ngang" kì dị<ref name="Cogger91_177">Cogger(1991), tr. 177.</ref><ref name = "Jayne2">{{Cite journal | last = Jayne | first = B.C. | title = Kinematics of terrestrial snake locomotion | journal = Copeia | year = 1986 | pages= 915–927 | doi = 10.2307/1445288 | volume = 1986 | issue = 4 | jstor = 1445288}}</ref>. Cách thức vận động này khắc phục được bản chất trơn trượt của cát hay bùn bằng cách tựa vào chỉ các phần tĩnh tại trên cơ thể, bằng cách này giảm thiểu sự trơn trượt<ref name="Cogger91_177"/>. Bản chất tĩnh tại của của các tiếp điểm có thể được chỉ ra từ các dấu vết của con rắn di chuyển kiểu uốn lượn nghiêng, với vết hằn của mỗi vảy bụng là rõ nét, không bị nhòe. Phương thức vận động này có tiêu hao năng lượng rất thấp, thấp hơn ⅓ tiêu hao năng lượng cho một con thằn lằn chạy hay một con rắn di chuyển kiểu sóng ngang trên cùng một khoảng cách<ref name="Walton"/>. Trái với niềm tin phổ biến, không có chứng cứ cho thấy chuyển động kiểu uốn lượn nghiêng là vì cát nóng<ref name="Cogger91_177"/>.
 
====Đàn concertina====
{{main|Chuyển động concertina}}
Khi không có điểm đẩy và không đủ không gian để sử dụng kiểu uốn lượn nghiêng do các hạn chế theo phương ngang, như bên trong đường ống, thì rắn dựa vào kiểu vận động concertina<ref name="Cogger91_175"/><ref name = "Jayne2"/>. Trong cách thức này, rắn chống phần thân sau vào thành đường ống trong khi phần thân trước duỗi thẳng<ref name="Cogger91_177"/>. Phần thân trước sau đó uốn cong tạo thành một điểm tựa, và phần thân sau được duỗi thẳng ra và được kéo về phía trước. Cách thức vận động này chậm và rất tốn năng lượng, tới 7 lần so với chuyển động sóng ngang trên cùng một khoảng cách<ref name="Walton"/>. Điều này là do sự dừng lại và bắt đầu được lặp đi lặp lại của các phần thân cũng như do sự cần thiết của việc sử dụng các cố gắng cơ bắp tích cực để chống vào thành đường ống.
 
====Thẳng====
{{main|Vận động thẳng}}
Cách thức vận động chậm nhất của rắn là vận động thẳng, cũng là cách thức duy nhất mà rắn không cần uốn cong cơ thể nó sang ngang, mặc dù nó có thể vẫn làm vậy khi gặp chỗ rẽ<ref name="Cogger91_176">Cogger (1991), tr. 176.</ref>. Trong cách thức này, các vảy bụng được nâng lên và được kéo về phía trước trước khi được hạ xuống và cơ thể được kéo qua chúng. Các sóng di chuyển và ngưng trệ chuyển về phía sau, tạo ra một chuỗi các sóng gợn trên da<ref name="Cogger91_176"/>. Các xương sườn của rắn không di động trong phương thức vận động này và đây cũng là phương pháp được các loài trăn lớn trong các họ [[Pythonidae]], [[Boidae]] và các loài rắn lục của họ [[Viperidae]] sử dụng thường xuyên nhất khi chúng lén đuổi theo con mồi ngang qua nền trống trải do chuyển động của rắn theo kiểu này là tinh tế và khó bị con mồi phát hiện<ref name="Cogger91_177"/>.
 
====Khác====
Sự vận động của các loài rắn trong các môi trường sống trên cây mới chỉ được nghiên cứu gần đây<ref name = "Astley">{{Cite journal |last = Astley |first =H.C. |last2 = Jayne |first2 = B.C. |title = Effects of perch diameter and incline on the kinematics, performance and modes of arboreal locomotion of corn snakes (Elaphe guttata) |year = 2007 |journal = Journal of Experimental Biology |volume = 210 |pages = 3862–3872 |doi = 10.1242/jeb.009050 |pmid = 17951427 |issue = Pt 21}}</ref>. Khi ở trên các cành cây, rắn sử dụng vài phương thức vận động, phụ thuộc vào kết cấu vỏ cây và tùy từng loài<ref name="Astley"/>. Nói chung, rắn sẽ sử dụng dạng vận động concertina được biến đổi trên các cành cây nhẵn nhụi, nhưng sẽ sử dụng dạng chuyển động sóng ngang nếu có các tiếp điểm<ref name="Astley"/>. Rắn di chuyển nhanh hơn trên các cành nhỏ và khi có các tiếp điểm, ngược lại với các động vật có chân, là những con vật di chuyển nhanh hơn trên các cành to với ít các ‘mấu’ hơn<ref name="Astley"/>.
 
Các loài rắn cườm (''[[Chrysopelea]]'') ở Đông Nam Á phóng thân mình từ các đầu cành, trải rộng các xương sườn ra và chuyển động kiểu sóng ngang khi chúng lướt đi giữa các cây<ref name="Cogger91_177"/><ref name="Freiberg84_135">Freiberg (1984), p. 135.</ref><ref>{{cite journal | doi= 10.1038/418603a | last1= Socha | first1= JJ | title= Gliding flight in the paradise tree snake | journal=Nature | volume= 418 | issue= 6898 |pages= 603–604 | year= 2002 |pmid = 12167849 }}</ref>. Các loài rắn này có thể thực hiện sự lướt đi có kiểm soát tới hàng chục mét, phụ thuộc vào cao độ phóng và thậm chí có thể xoay mình trong không trung<ref name="Cogger91_177"/><ref name="Freiberg84_135"/>.
 
===Sinh sản===
Mặc dù các loài rắn sử dụng một loạt các phương thức sinh sản, nhưng tất cả đều là [[thụ tinh trong]]. Điều này được thực hiện với sự hỗ trợ của một cơ quan có chạc đôi, gọi là [[bán dương vật]], có thể thò ra thụt vào, nằm ở phần đuôi rắn đực<ref name="Capula89_117">Capula (1989), tr. 117.</ref>. Các bán dương vật thường xẻ khía, có móc hay có gai để kẹp vào vách lỗ huyệt của rắn cái<ref name="Capula89_117"/>.
 
Phần lớn các loài rắn đẻ [[trứng (sinh học)|trứng]] và nói chung chúng sẽ bỏ rơi trứng ngay sau khi đẻ. Tuy nhiên, một số loài (như [[rắn hổ mang chúa]]) lại thực sự làm tổ và vẫn ở gần các con rắn con sau khi ấp<ref name="Capula89_117"/>. Phần lớn các loài trăn họ [[Pythonidae]] cuộn tròn xung quanh ổ trứng của chúng và ở đó cho tới khi trứng nở<ref name="Cogger91_186">Cogger (1991), tr. 186.</ref>. Một con trăn cái sẽ không rời ổ trứng, ngoại trừ thỉnh thoảng phải bò ra tắm nắng hay uống nước. Nó thậm chí còn “rùng mình” để sinh nhiệt nhằm ấp trứng<ref name="Cogger91_186"/>.
 
Một số loài rắn là [[sinh noãn thai]] và giữ các quả trứng trong cơ thể cho tới khi chúng gần như đã sẵn sàng để nở<ref name="Capula89_118">Capula (1989), tr. 118.</ref><ref name="Cogger91_182">Cogger (1991), tr. 182.</ref>. Gần đây người ta đã xác nhận rằng một vài loài rắn là động vật [[sinh thai|đẻ con]] thật sự, như ''[[Boa constrictor]]'' và [[trăn anaconda xanh]] (''Eunectes murinus''), nuôi con non của chúng thông qua [[nhau thai]] cũng như [[túi noãn hoàng]], và điều này là rất bất thường ở các loài bò sát, cũng như ở bất cứ loài động vật nào khác không phải là cá mập trong họ [[Carcharhinidae]] hay [[thú có nhau thai]] (Eutheria)<ref name="Capula89_118"/><ref name="Cogger91_182"/>. Sự cầm giữ lại trứng và sinh con non thường gắn với các môi trường lạnh hơn, cũng giống như sự cầm giữ con non trong cơ thể con mẹ<ref name="Capula89_117"/><ref name="Cogger91_182"/>.
 
==Tương tác với con người==
[[Tập tin:Snake bite symptoms.png|nhỏ|300px|Các triệu chứng phổ biến nhất của việc bị rắn độc cắn<ref name=MedlinePlus/><ref>[http://www.health-care-clinic.org/diseases/snakebite.html Health-care-clinic.org > Snake Bite First Aid - Snakebite]. Tra cứu 9-3-2010.</ref><ref>Ví dụ về hình ảnh vết rắn cắn tại [http://www.mdconsult.com/das/patient/body/127551351-2/0/10041/8928_en.jpg MDconsult > Patient Education > Wounds, Cuts and Punctures, First Aid for].</ref>. Ngoài ra còn có vô số biến thể trong các triệu chứng bị rắn độc thuộc các loài khác nhau cắn.<ref name=MedlinePlus>[http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/000031.htm MedlinePlus > Snake bites] Từ Tintinalli JE, Kelen GD, Stapcynski JS (chủ biên). Emergency Medicine: A Comprehensive Study Guide. Ấn bản lần 6. New York, NY: McGraw Hill; 2004. Cập nhật: 27/2/2008. Bởi: Stephen C. Acosta, MD, Department of Emergency Medicine, Portland VA Medical Center, Portland, OR. Do VeriMed Healthcare Network và David Zieve, MD, MHA, Medical Director, A.D.A.M., Inc. thẩm định. Tra cứu 9-3-2010.</ref>]]
 
===Rắn cắn===
{{main|Rắn cắn}}
[[Tập tin:ViperaBerusFang.JPG|nhỏ|trái|200px|''[[Vipera berus]]'', một răng nọc cắn vào chiếc găng tay với vết nọc nhỏ.]]
Thông thường rắn không tấn công con người, trừ khi bị giật mình hay bị thương. Nói chung phần lớn các loài rắn cố gắng tránh tiếp xúc khi đối mặt với con người. Ngoại trừ các loài trăn lớn, các loài rắn không có nọc độc không phải là mối đe dọa đối với người. Những vết cắn của rắn không nọc thường là vô hại do răng của chúng không được thiết kế để xé rách hay gây ra những vết thương sâu, mà là để tóm giữ. Tuy vậy vẫn có khả năng xảy ra tổn thương mô và nhiễm trùng từ những vết do rắn không nọc cắn. Ngược lại, rắn có nọc độc (rắn độc) lại tiềm ẩn nguy hiểm lớn hơn nhiều cho con người<ref name="Meh87"/>{{Rp|209}}, cho dù những ca tử vong do rắn cắn không phải là quá phổ biến. Những vết cắn không dẫn tới tử vong do rắn độc gây ra có thể vẫn dẫn tới hậu quả là phải cắt cụt một phần chân tay. Trong số khoảng 725 loài rắn có nọc độc trên toàn thế giới thì chỉ khoảng 250 loài có thể giết chết con người chỉ bằng một nhát cắn. Tại [[Australia]] trung bình chỉ một lần rắn cắn gây tử vong mỗi năm, nhưng tại [[Ấn Độ]] có tới 250.000 lần rắn cắn được ghi nhận trong năm, gây ra tới 50.000 vụ tử vong<ref name="Sinha">{{Cite news | last =Sinha | first =Kounteya | author-link = | title = No more the land of snake charmers... | newspaper = The Times of India | pages = | date =25-7-2006 | url =http://timesofindia.indiatimes.com/articleshow/1803026.cms }}</ref>.
 
Việc xử lý vết rắn cắn cũng thay đổi tùy theo từng loại vết cắn. Phương pháp thông dụng và hiệu quả nhất là thông qua [[huyết thanh kháng nọc rắn]] (antivenom hay antivenin), một loại huyết thanh được chế ra từ nọc rắn. Một số loại antivenom là chuyên biệt theo loài (đơn hóa trị, đặc hiệu) trong khi một số khác được chế ra để sử dụng cho nhiều loài (đa hóa trị). Chẳng hạn tại [[Hoa Kỳ]], gần như tất cả các loài rắn độc đều là [[rắn vipe hốc lõm]] (phân họ [[Crotalinae]] trong họ [[Viperidae]]), ngoại lệ duy nhất là các loài [[rắn san hô]] (các chi ''Micrurus'', ''Micruroides'' thuộc họ [[Elapidae]]). Để sản xuất antivenom, hỗn hợp nọc của các loài rắn khác nhau như [[rắn chuông]] (''Crotalus'', ''Sistrurus''), [[rắn đầu đồng]] (''Agkistrodon contortrix'') và [[rắn miệng bông]] (''Agkistrodon'' spp.) được tiêm vào cơ thể ngựa với liều lượng tăng dần cho tới khi ngựa được miễn dịch. Sau đó máu được chiết ra từ ngựa đã miễn dịch. Huyết thanh được tách ra để tinh chế tiếp (để loại bỏ các protein ngoại lai) và sấy thăng hoa. Nó được hoàn nguyên với nước cất và trở thành huyết thanh kháng nọc rắn. Vì lý do này mà những người bị dị ứng với ngựa rất dễ bị dị ứng với huyết thanh kháng nọc rắn<ref>[http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2146932/pdf/canfamphys00081-0113.pdf NCBI.nlm.nih.gov]</ref>. Huyết thanh kháng nọc rắn cho những loài nguy hiểm hơn (như [[mamba]] (''Dendroaspis''), [[taipan]] (''Oxyuranus'') và [[rắn hổ mang]] (''Naja'')) được sản xuất theo phương pháp tương tự tại Ấn Độ, Nam Phi và Australia, mặc dù các loại huyết thanh kháng nọc rắn này là đặc hiệu theo loài.
 
===Thôi miên rắn===
{{main|Thôi miên rắn}}
[[Tập tin:Snake in basket.jpg|nhỏ|trái|Một con [[rắn hổ mang Ấn Độ]] trong giỏ với người thôi miên rắn. Những con rắn hổ mang có lẽ là đối tượng phổ biến nhất trong thuật thôi miên rắn.]]
Tại một vài nơi trên thế giới, đặc biệt tại [[Ấn Độ]], [[thôi miên rắn]] là cuộc trình diễn ven đường do những người làm nghề thôi miên rắn trình diễn. Trong những cuộc trình diễn như vậy, người thôi miên rắn mang theo một chiếc giỏ chứa một con rắn để thực hiện việc dường như là ông ta thôi miên con rắn bằng cách thổi một số điệu nhạc du dương bằng một nhạc cụ dạng [[sáo (nhạc cụ)|sáo]] để con rắn phản ứng theo<ref name="Bagla"/>. Rắn không có tai ngoài (mặc dù có tai trong) và trên thực tế nó phản ứng với chuyển động của cây sáo chứ không phải phản ứng với âm thanh thật sự<ref name="Bagla">{{cite news | last=Bagla | first=Pallava | title=India's Snake Charmers Fade, Blaming Eco-Laws, TV | date=23-4-2002 | publisher=National Geographic News | url=http://news.nationalgeographic.com/news/2002/04/0417_020423_snakecharm_2.html | accessdate = 26-11-2007}}</ref><ref>[http://books.google.com/books?id=BumyQJ14n8sC&pg=PA482&dq=snake+charmer+bluff&hl=nl&ei=yDw0TYGxGsKfOs3qzLYC&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=1&ved=0CCkQ6AEwAA#v=onepage&q=snake%20charmer%20bluff&f=false International Wildlife encyclopedia, ấn bản lần 3, tr. 482]</ref>.
 
Luật bảo vệ động vật hoang dã năm 1972 của Ấn Độ về mặt kỹ thuật cấm thôi miên rắn trên cơ sở làm giảm sự đối xử độc ác với động vật. Những người thôi miên rắn khác còn trình diễn cuộc đấu giữa rắn với cầy mangut, trong đó cả hai con vật có một cuộc đấu giả vờ; tuy nhiên điều này là không phổ biến do cả rắn lẫn cầy mangut đều có thể bị thương nặng hay tử vong. Nghề thôi miên rắn tại Ấn Độ đang tàn lụi do sự cạnh tranh từ các dạng giải trí hiện đại cũng như do luật môi trường ngăn cấm việc hành nghề này<ref name="Bagla"/>.
 
===Bắt rắn===
Bộ lạc ''Irulas'' ở [[Andhra Pradesh]] và [[Tamil Nadu]] thuộc [[Ấn Độ]] hành nghề bắt rắn trong nhiều thế hệ. Họ có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về rắn trên thực địa. Nói chung họ bắt rắn với sự hỗ trợ của một cây sào. Trước đây, người ''Irulas'' đã bắt hàng nghìn con rắn để lấy da. Sau khi ngành công nghiệp da rắn bị cấm triệt để và sự bảo vệ rắn theo Luật bảo vệ động vật hoang dã năm 1972 tại Ấn Độ thì họ đã lập ra Hội hợp tác bắt rắn Irula và chuyển sang bắt rắn để lấy nọc và thả chúng ra sau 4 lần lấy nọc. Nọc rắn thu thập theo cách này được dùng để sản xuất huyết thanh kháng nọc rắn cũng như phục vụ cho nghiên cứu y sinh học và sản xuất các dược phẩm khác<ref name="Whitaker et al.">Whitaker, Romulus & Captain, Ashok. ''Snakes of India: The Field Guide''.(2004) tr. 11-13.</ref>.
 
Bên cạnh đó còn có những người bắt rắn chuyên nghiệp khác. Hành nghề bắt rắn ngày nay còn có các nhà bò sát học với công cụ là các cây sào dài với đầu sào hình chữ V. Một vài người dẫn chưng trình truyền hình về động vật hoang dã, như [[Bill Haast]], [[Austin Stevens]], [[Steve Irwin]], [[Jeff Corwin]] v.v. còn bắt rắn trực tiếp bằng tay không.
 
===Tiêu thụ===
[[Tập tin:Guangzhou-snakes-at-restaurant-0457.jpg|nhỏ|"海豹蛇" ("hải báo xà", có lẽ là loài ''[[Enhydris bocourti]]'') chiếm vị trí trang trọng trong số các đặc sản tươi sống bên ngoài một khách sạn ở [[Quảng Châu]].]]
[[Tập tin:Snake meat.jpg|nhỏ|trái|Thịt rắn trong một tiệm ăn ở Đài Bắc]]
Trong khi đa phần các nền văn hóa không dùng rắn làm thực phẩm thì tại một số quốc gia việc sử dụng rắn làm thực phẩm lại được chấp nhận hay thậm chí còn được coi là đặc sản, do các thức ăn chế biến từ rắn được đánh giá cao về tác dụng y học. Món xúp rắn trong ẩm thực Quảng Đông được người dân tại đây dùng trong mùa thu do họ coi nó có tác dụng làm ấm cơ thể. Trong các nền văn hóa phương Tây thì việc ăn thịt rắn cũng từng xảy ra khi gặp phải những năm đói kém<ref>{{cite journal|last=Irvine|first=F. R.|year=1954|title=Snakes as food for man|journal=British Journal of Herpetology|volume=1|issue=10| pages=183–189 }}</ref>. Việc ăn thịt rắn chuông đã nấu chín là một ngoại lệ, với việc tiêu thụ nói chung phổ biến tại các khu vực ở miền trung tây nước Mỹ. Tại các quốc gia châu Á, như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam và Campuchia, việc uống rượu pha tiết rắn—cụ thể là [[rắn hổ mang]]—được cho là làm gia tăng khả năng tình dục<ref name="Flynn">{{cite news |last=Flynn |first=Eugene |title=Flynn Of The Orient Meets The Cobra |date=23-4-2002 |publisher=Fabulous Travel |url= http://www.fabuloustravel.com/gourmet/travel/cobrasblood/cobra.html |accessdate=7-8-2012}}</ref>. Việc lấy tiết rắn được thực hiện khi con rắn còn sống và nó được pha với một vài loại rượu mạnh hay rượu mùi để cải thiện mùi vị<ref name="Flynn"/>.
 
Tại một số quốc gia châu Á việc sử dụng rắn ngâm trong rượu cũng được chấp nhận. Trong trường hợp này nguyên cả con rắn hay nguyên cả con của một vài loại rắn được ngâm trong bình rượu mạnh hay rượu mùi. Người ta cho rằng rượu rắn có tác dụng tốt với cơ thể (và rượu rắn cũng được bán đắt hơn). Một ví dụ là loài [[rắn lục Habu]] (''Trimeresurus flavoviridis'') đôi khi được ngâm trong rượu [[Awamori]] của người dân [[Okinawa]] và được gọi là "Habu Sake"<ref name="Allen">{{cite news
|last=Allen |first=David |title=Okinawa’s potent habu sake packs healthy punch, poisonous snake |date=22-7-2001 |publisher=Stars and Stripes |url=http://ww2.pstripes.osd.mil/01/mag/sm072201c.html |accessdate=26-11-2007}}</ref>.
 
Các học viên của lực lượng đặc nhiệm Quân đội Hoa Kỳ cũng được huấn luyện bắt, giết và ăn thịt rắn để có thể sống sót trong các hoàn cảnh đặc biệt; và điều này đã làm người ta gán cho họ tên hiệu là "snake eaters" (những kẻ ăn rắn).
 
[[Rượu rắn]] (蛇酒; xà tửu) là loại rượu ngâm nguyên cả con rắn trong các loại rượu sản xuất từ gạo hay ngũ cốc. Việc uống rượu rắn tại Trung Quốc lần đầu tiên được ghi chép lại có từ thời [[nhà Chu|Tây Chu]] và được coi là có tác dụng chữa bệnh và làm cường tráng cơ thể theo [[y học cổ truyền Trung Hoa]]<ref name=sw1>{{cite web|title=蛇酒的泡制与药用(Sản xuất và tác dụng y học của rượu rắn)|date=09-04-2007 |url=http://www.cn939.com/tcm-article-read-4694.html}}</ref>.
 
===Động vật cảnh===
Tại phương Tây, một vài loài rắn (đặc biệt là các loài dễ thuần hóa như [[trăn hoàng gia]] (''Python regius'') và [[rắn săn chuột đỏ]] (''Pantherophis guttatus'') được nuôi làm động vật cảnh. Để đáp ứng nhu cầu này một ngành công nghiệp nuôi nhốt động vật bò sát đã phát triển. Các loại rắn sinh đẻ nuôi nhốt có xu hướng dễ nuôi làm động vật cảnh hơn so với các loại rắn bắt được trong tự nhiên<ref>{{cite book |last = Ernest |first = Carl |coauthors =George R. Zug, Molly Dwyer Griffin |title = Snakes in Question: The Smithsonian Answer Book | publisher = Smithsonian Books |year =1996 |location =Washington, DC |page = 203 |isbn =1-56098-648-4 }}</ref>. Rắn cảnh dễ nuôi hơn so với nhiều loại động vật cảnh truyền thống khác do chúng không cần nhiều không gian (do phần lớn rắn cảnh không dài quá 1,5 m và chúng cũng không cần phải cho ăn uống quá thường xuyên (thường chỉ một lần trong vòng 5-14 ngày). Một vài loại rắn cảnh có thể sống trên 40 năm nếu được chăm sóc chu đáo.
 
===Biểu tượng===
{{main|Rắn (biểu tượng)}}
Trong lịch sử [[Ai Cập]], rắn có một vai trò quan trọng với rắn hổ mang sông Nin trang điểm cho vương miện của các pharaoh trong thời kỳ cổ đại. Nó được tôn thờ như là một vị thần và từng được sử dụng cho các mục đích độc ác: nó là kẻ sát nhân trong một vụ tự sát theo nghi lễ của [[Cleopatra VII|Cleopatra]].
 
[[Tập tin:Medusa by Carvaggio.jpg|nhỏ|phải|[[Medusa]] trong tranh của họa sĩ người Italia thế kỷ 16 [[Caravaggio]].]]
Trong [[thần thoại Hy Lạp]] rắn thường gắn với các địch thủ nguy hiểm chết người, nhưng điều này không có nghĩa rằng rắn là biểu tượng của điều ác độc; trên thực tế rắn là biểu tượng gắn liền với đất hay âm phủ. Con rắn chín đầu [[Lernaean Hydra]] mà [[Hercules]] đánh bại và ba chị em [[Gorgon]] đều là con của Gaia, nữ thần đất<ref name="BF85">Bullfinch (2000) tr. 85.</ref>. [[Medusa]] là một trong số ba chị em Gorgon mà [[Perseus]] đã đánh bại<ref name="BF85"/>. Medusa được mô tả là một vị thần bất tử gớm ghiếc, với mái tóc là những con rắn và có phép thuật biến những kẻ đàn ông thành đá chỉ bằng ánh mắt<ref name="BF85"/>. Sau khi giết chết Medusa, Perseus đã dâng đầu nàng cho [[Athena]] để gắn vào chiếc khiên che ngực gọi là [[Aegis]]<ref name="BF85"/>. Các Titan cũng được mô tả là có các con rắn thay vì có chân vì cùng một lý do—họ đều là con của Gaia với Ouranos (Uranus), vì thế họ cũng gắn liền với đất.
[[Tập tin:PuckCartoon-TeddyRoosevelt-05-23-1906.jpg|nhỏ|phải|200px|Tổng thống Hoa Kỳ [[Theodore Roosevelt]] được vẽ trong tranh như là [[Hercules]] trẻ con đang vật lộn với con rắn khổng lồ, tượng trưng cho công ty [[Standard Oil]].]]
Truyền thuyết về sự ra đời của [[Thebes, Hy Lạp|Thebes]] đề cập tới một con rắn quái vật khổng lồ ngăn giữ suối nước mà dân cư của khu định cư này lấy nước. Trong cuộc chiến để giết chết con rắn, những người bạn đồng hành của nhà sáng lập khu định cư là [[Cadmus]] đều bị giết chết – điều này dẫn tới thuật ngữ "[[chiến thắng kiểu Cadmus]]" (nghĩa là chiến thắng với sự tự hủy diệt bản thân).
 
Ba biểu tượng y học liên quan tới rắn còn được sử dụng cho tới ngày nay là [[Chén Hygieia]], biểu tượng cho dược học, và [[Caduceus]] cùng [[Gậy Asclepius]] là biểu tượng cho y tế nói chung<ref name=AIM/>.
 
[[Ấn Độ]] thường được gọi là vùng đất rắn và huyền ảo trong các tập tục liên quan tới rắn<ref name="Deane_61"/>. Snakes are worshipped as gods even today with many women pouring [[milk]] on snake pits (despite snakes' aversion for milk)<ref name="Deane_61">Deane (1833). tr. 61.</ref>. Rắn hổ mang có trên cổ thần [[Shiva]] còn thần [[Vishnu]] thường được vẽ trong tư thế đang ngủ trên con rắn bảy đầu hoặc với các cuộn rắn<ref>Deane (1833). tr. 62–64.</ref>. Có một số đền miếu tại Ấn Độ chỉ dành cho rắn hổ mang, đôi khi được gọi là ''Nagraj'' (vua rắn) và người ta tin rằng rắn là biểu tượng của sự trù phú. Có một lễ hội Hindu gọi là [[Nag Panchami]] mỗi năm (tổ chức vào ngày thứ năm sau ngày [[Amavasya]] của tháng [[Shraavana]]), trong ngày đó những con rắn được tôn thờ và vái lạy. Xem thêm ''[[Nāga]]''.
 
Tại Ấn Độ còn có truyền thuyết khác về rắn. Nói chung được biết đến như là những con rắn "Ichchhadhari" trong [[tiếng Hindi]]. Những con rắn này có thể có hình dáng của bất kỳ sinh vật nào, nhưng thích biến hình thành dạng người. Những con rắn thần bí này chiếm giữ viên ngọc quý gọi là "Mani" quý báu hơn cả [[kim cương]]. Có nhiều câu chuyện cổ tích tại Ấn Độ kể về những kẻ tham lam cố đoạt viên ngọc quý này và đều có chung một kết cục là bị giết chết.
 
[[Ouroboros]] là biểu tượng gắn với nhiều tôn giáo và tập quán khác nhau, và được coi là có liên quan tới [[giả kim thuật]]. Ouroboros hay Oroboros là con rắn hay con rồng cắn đuôi của chính nó theo chiều kim đồng hồ (tính từ đầu tới đuôi) vẽ thành vòng tròn, tượng trưng cho chu trình sống, chết và tái sinh, dẫn tới sự bất tử.
 
[[Tị]] là một trong số 12 địa chi của [[Thiên Can Địa Chi]], trong [[lịch Trung Quốc]].
 
Nhiều nền văn hóa Peru cổ đại thờ phụng thiên nhiên<ref>{{cite book | last=Benson |first= Elizabeth | title= The Mochica: A Culture of Peru |location=London | publisher=Thames and Hudson |year= 1972 | isbn= 0-500-72001-0 }}</ref>. Người dân của các nền văn hóa này đề cao các con vật và thường vẽ các con rắn trong các bức họa của mình<ref>{{cite book | last1=Berrin |first1= Katherine |last2= Larco Museum |title=The Spirit of Ancient Peru: Treasures from the [[Bảo tàng Larco|Museo Arqueológico Rafael Larco Herrera]] | location= New York |publisher= Thames and Hudson |year= 1997 |isbn=978-0-500-01802-6 }}</ref>.
 
 
==Xem thêm==
* [[Truyền thuyết Bạch Xà]]
* [[Xà học]]
* [[Bộ xương rắn]]
* [[Rắn độc]]
 
==Ghi chú==
{{reflist|30em}}
 
==Đọc thêm==
{{Refbegin|30em}}
*{{cite book |last = Behler |first = John L. |last2 = King |first2 = F. Wayne |title = The Audubon Society Field Guide to Reptiles and Amphibians of North America |publisher = Alfred A. Knopf |location= New York |page = 581 |year= 1979 |isbn = 0-394-50824-6}}
*{{cite book |last =Bullfinch |first =Thomas |authorlink =Thomas Bullfinch |title =Bullfinch's Complete Mythology |publisher =Chancellor Press |year =2000 | location =[[London]] |page =679 |url =http://etext.library.adelaide.edu.au/b/bulfinch/thomas/ |isbn =0-7537-0381-5}}
*{{cite book |last= Capula |first= Massimo |coauthors =Behler |title= Simon & Schuster's Guide to Reptiles and Amphibians of the World |year= 1989 |publisher= Simon & Schuster |location= [[New York]] |isbn= 0-671-69098-1}}
*{{cite book |last= Coborn |first= John |title=The Atlas of Snakes of the World |year= 1991 |location=[[New Jersey]] |publisher = TFH Publications |isbn= 978-0-86622-749-0}}
*{{cite book |last = Cogger |first = Harold |authorlink = Harold Cogger |last2 = Zweifel |first2 = Richard |title = Reptiles & Amphibians |publisher = Weldon Owen |location = [[Sydney]] |year = 1992 |isbn = 0-8317-2786-1}}
*{{cite book |last =Conant |first =Roger |last2 =Collins |first2 =Joseph |authorlink=Roger Conant (nhà bò sát học) |title =A Field Guide to Reptiles and Amphibians Eastern/Central North America |publisher =Houghton Mifflin Company |year= 1991 |location =[[Boston]], [[Massachusetts]] |isbn = 0-395-58389-6 }}
*{{cite book |last =Deane |first =John |authorlink =The Worship of the Serpent |title =The Worship of the Serpent |publisher =Kessinger Publishing |year =1833 |location =[[Whitefish, Montana|Whitefish]], [[Montana]] |page =412 |url =http://www.sacred-texts.com/etc/wos/index.htm |isbn =1-56459-898-5}}
*{{cite book |last =Ditmars |first =Raymond L |authorlink =Raymond Ditmars |title = Poisonous Snakes of the United States: How to Distinguish Them |publisher =E. R. Sanborn |year =1906 |location =[[New York]] |page =11}}
*{{cite book |last =Ditmars |first =Raymond L |authorlink =Raymond Ditmars |title = Snakes of the World |publisher =Macmillan |year =1931 |location =[[New York]] |page =11 |isbn = 978-0-02-531730-7 }}
*{{cite book |last =Ditmars |first =Raymond L |authorlink =Raymond Ditmars |title = Reptiles of the World: The Crocodilians, Lizards, Snakes, Turtles and Tortoises of the Eastern and Western Hemispheres |publisher =Macmillan |year =1933 |location =[[New York]] |page =321}}
*{{cite book |last =Ditmars |first =Raymond L |coauthor = W. Bridges |authorlink =Raymond Ditmars |title = Snake-Hunters' Holiday |publisher =D. Appleton and Company |year =1935 |location =[[New York]] |page =309}}
*{{cite book |last =Ditmars |first =Raymond L |authorlink =Raymond Ditmars |title = A Field Book of North American Snakes |publisher =Doubleday, Doran & Co |year =1939 |location =[[Garden City, New York|Garden City]], [[New York]] |page =305}}
*{{cite book |last= Freiberg |first= Dr. Marcos |last2= Walls |first2=Jerry |title= The World of Venomous Animals |year= 1984 |publisher= TFH Publications|location=[[New Jersey]] |isbn= 0-87666-567-9}}
*{{cite book |last =Gibbons |first =J. Whitfield |last2 =Gibbons |first2 =Whit |title =Their Blood Runs Cold: Adventures With Reptiles and Amphibians |publisher =Nhà in [[Đại học Alabama]] |year =1983 |location =[[Alabama]] |page =164 |isbn=978-0-8173-0135-4 }}
*{{cite book |last =Mattison |first =Chris |title =The New Encyclopedia of Snakes |publisher =Nhà in [[Đại học Princeton]] |year =2007 |location =[[New Jersey]] |page =272 |isbn=978-0-691-13295-2 }}
*{{cite book |last=McDiarmid |first=RW |last2= Campbell |first2=JA |last3=Touré |first3=T |year= 1999 |title= Snake Species of the World: A Taxonomic and Geographic Reference |volume= 1 |publisher= Herpetologists' League |page=511 |isbn= 1-893777-00-6 }}
*{{cite book |last= Mehrtens |first= John |title= Living Snakes of the World in Color |year= 1987 |publisher= Sterling |location= [[New York]] |isbn= 0-8069-6461-8}}
* {{cite journal | last1= Nóbrega Alves | first1= RôMulo Romeu | last2= Silva Vieira | first2= Washington Luiz | last3= Santana | first3= Gindomar Gomes | title= Reptiles used in traditional folk medicine: conservation implications | journal= Biodiversity and Conservation |volume= 17 |issue=8 |pages= 2037–2049 |url=http://www.springerlink.com/content/j3558j2n828x35w3/?p=2b29f0e29e064961ad47b479f780adb2&pi=15 | year= 2008 |accessdate= 22-1-2009 | doi = 10.1007/s10531-007-9305-0 }}
*{{cite book |author=[[Romulus Whitaker]] (bản tiếng Anh); O.Henry Francis dịch từ tiếng Tamil |title=நம்மை சுட்ரியுள்ள பாம்புகள் (Rắn xung quanh chúng ta, người Tamil) |publisher=National Book Trust |year=1996 |isbn=81-237-1905-1 }}
*{{cite book |last = Rosenfeld |first = Arthur |title = Exotic Pets |publisher = Simon & Schuster |location= [[New York]] |year= 1989 |page=293 |isbn = 978-0-671-47654-0}}
*{{cite book |last =Spawls |first=Steven |last2 =Branch |first2= Bill |year= 1995 |title= The Dangerous Snakes of Africa |publisher=Ralph Curtis Publishing |location=[[đảo Sanibel]], [[Florida]] |page= 192 |isbn = 0-88359-029-8}}
{{Refend}}
 
==Liên kết ngoài==
{{commons category|Serpentes }}
* {{cite web |url=http://www.snaketracks.com/species.html |title=Worldwide Snake Species List |publisher=Snake Track.com }}
* {{cite web |url=http://www.biodiversitylibrary.org/name/Serpentes |title=Bibliography for "Serpentes" |publisher=Biodiversity Heritage Library}}
* {{ITIS |id=174118 |taxon=Serpentes}}
* {{cite web |url=http://enature.com/fieldguides/view_default.asp?curGroupID=7&shapeID=1060 |title=US Snakes |publisher=eNature}}
* {{cite web |url=http://www.naturemagics.com/stock-photo/thumbnails.php?album=7 |title=Snakes of the Indian Subcontinent |publisher=Naturemagics Kerala Photo Gallery }}
* {{cite web |url=http://www.snakecell.org/snake-cell.html |title=About Snake Cell |publisher=Snake Cell}} (Ấn Độ)
* {{cite web |url=http://www.reptilesweb.com/reptiles-section/snake-world.html |title=Snake World |publisher=ReptilesWeb.com}}
* {{cite web |url=http://www.oplin.org/snake |title=What's That Snake? |publisher=OPLIN}}
* {{cite web |url=http://artedi.nrm.se/nrmherps/qbrowse.php?FormData=scientificName |title=Herpetology Database |publisher=Swedish Museum of Natural History}}
*[http://www.bbc.co.uk/nature/life/Snake BBC Nature:] Snake news, and video clips from BBC programmes past and present.
{{Snake families}}
[[Category:Rắn| ]]
 
{{Link FA|nl}}
{{Link FA|zh}}
{{Link GA|no}}
 
[[af:Slang]]
Hàng 132 ⟶ 445:
[[an:Serpentes]]
[[arc:ܚܘܝܐ]]
[[as:সাপ]]
[[ast:Culiebra]]
[[gn:Mbói]]
[[ay:Asiru]]
[[az:İlanlar]]
[[bjn:Tadung]]
[[id:Ular]]
[[ms:Ular]]
[[bn:সাপ]]
[[bjn:Tadung]]
[[zh-min-nan:Choâ]]
[[jv:Ula]]
[[su:Oray]]
[[ba:Йыландар]]
[[be:Змеі]]
[[be-x-old:Зьмеі]]
[[bg:Змии]]
[[bo:སྦྲུལ།]]
[[bs:Zmija]]
[[br:Naer]]
[[bg:Змии]]
[[ca:Serp]]
[[ceb:Bitin]]
Hàng 183 ⟶ 491:
[[hr:Zmije]]
[[io:Serpento]]
[[id:Ular]]
[[is:Slöngur]]
[[it:Serpentes]]
[[he:נחשים]]
[[jv:Ula]]
[[ka:გველები]]
[[kk:Жыландар]]
[[kw:Sarf]]
[[ky:Жыландар]]
[[mrj:Кӹшкӹ]]
[[sw:Nyoka]]
[[ht:Koulèv]]
[[ku:Mar]]
[[ky:Жыландар]]
[[mrj:Кӹшкӹ]]
[[la:Serpentes]]
[[lv:Čūskas]]
Hàng 201 ⟶ 511:
[[hu:Kígyók]]
[[mk:Змија]]
[[ml:പാമ്പ്‌പാമ്പ്]]
[[mt:Serp]]
[[mr:साप]]
[[mzn:مر]]
[[ms:Ular]]
[[cdo:Siè]]
[[my:မြွေ]]
Hàng 225 ⟶ 536:
[[qu:Mach'aqway]]
[[ru:Змеи]]
[[ruese:ЗмыїGearpmaš]]
[[se:Gearpmašat]]
[[sco:Snake]]
[[nso:Noga]]
[[sq:Gjarpëri]]
[[scn:Scursuni]]
[[si:සර්පයෝ - ශ්රී ලංකා]]
[[si:ශ්‍රී ලංකාවේ සර්පයෝ]]
[[simple:Snake]]
[[sk:Hady]]
Hàng 239 ⟶ 549:
[[sr:Змије]]
[[sh:Zmija]]
[[su:Oray]]
[[fi:Käärmeet]]
[[sv:Ormar]]
Hàng 245 ⟶ 556:
[[te:పాము]]
[[th:งู]]
[[tg:Мор]]
[[chy:Še'šenovôtse]]
[[tr:Yılan]]
Hàng 252 ⟶ 562:
[[uk:Змії]]
[[ur:سانپ]]
[[vep:Küd]]
[[fiu-vro:Siug]]
[[wa:Sierpint]]