Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đông Chu quân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 44:
| nghề nghiệp =
}}
'''Đông Chu quân''' hay '''Đông Chu HuệVăn Côngquân''' ([[chữ Hán]]: 周惠公; trị vì: [[255 TCN]]? - [[249 TCN]]<ref name="ReferenceA">Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành, sách đã dẫn, tr 22</ref>), tên thật là '''Cơ BanKiệt''' (姬根) được xem là vị vua thứ 38 và là vua cuối cùng của [[nhà Chu]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].
 
==Thân thế==
'''Đông Chu quân''' là tông thất dòng dõi nhà Chu. [[Chu Khảo Vương]] (440-426 TCN) phong cho em ở đất Hà Nam để làm chức Chu công phụ chính triều đình, người em trở thành Hà Nam Hoàn công, mở đầu cho chi thứ ở phía đông nhà Đông Chu.
 
Hà Nam Hoàn công mất, con là Hà Nam Uy công nối ngôi. Sau đời Uy công đến con là Huệ công (đời thứ 3) nối chức. SauNhưng đóem Hà Namcủa Huệ côngCông là Cơ Căn nổi dậy chống lại phonganh chođược một2 ngườinước con[[chư nhỏhầu]][[Hàn Ban(nước)|Hàn]] ravà [[Triệu (nước)|Triệu]] tôn lập ở đất Củng<ref>Nay [[Củng Nghĩa]], tỉnh [[Hà Nam, Trung Quốc]]</ref>., sử tàigọi liệu xác nhận Đông Chu quân, Cơ chínhKiệtngườivua concuối nhỏcùng của Huệnước công<ref name="ReferenceA"/>này.
 
== Mất nước==
Năm 256 TCN, Tần Chiêu Tương vương đánh Tây Chu, bắt Chu Noản vương và thu chín đỉnh nhà Chu về Tần. Dân Tây Chu chạy lưu vong sang nương nhờ Đông Chu quân, lúc ấy Đông Chu Văn quân đang ở ngôi không rõ được mấy năm. Cơ nghiệp nhà Chu đến đây đúng ra là chấm dứt rồi nhưng lòng người vẫn trông mong ở Đông Chu quân có thể phục hồi vương triều, một số dân chúng lưu vong và những người trung thành với nhà Chu dựa vào Đông Chu quân để chiêu tập nghĩa quân phục quốc. Năm 249 TCN, [[Tần Trang Tương Vương]] muốn diệt cỏ tận gốc bèn cử tướng quốc [[Lã Bất Vi]] điều quân đi đánh chiếm nốt đất Đông Chu. Toàn bộ đất Tây Chu và Đông Chu đều thuộc về nước Tần, không rõ Đông Chu quân mất năm nào.
Sang thời [[Chu Noản Vương]], đất nhà Chu nhỏ bé cũng xảy ra tranh chấp, cuối cùng chia làm hai nửa: [[Đông Chu (nước)|Đông Chu]] và [[Tây Chu (nước)|Tây Chu]]. Noãn vương ở nhờ Tây Chu quân.
 
Nhà Chu vốn đã rất yếu thế trong cuộc chiến của thất hùng, hai nửa Tây Chu và Đông Chu cũng không hòa thuận, vài lần xảy ra xung đột.
 
Năm 256 TCN, Tần Chiêu Tương vương đánh Tây Chu, bắt Chu Noản vương và thu chín đỉnh nhà Chu về Tần. Dân Tây Chu chạy lưu vong sang nương nhờ Đông Chu quân.
 
Ông duy trì cơ nghiệp tồn tại trên danh nghĩa của nhà Chu thêm 7 năm nữa. Năm 249 TCN, [[Tần Trang Tương Vương]] điều quân đi đánh chiếm nốt đất Đông Chu. Toàn bộ đất Tây Chu và Đông Chu đều thuộc về nước Tần. Không rõ Đông Chu quân mất năm nào.
 
[[Sử ký]] đề cập sự kiện nước Tần "nuốt hai Chu"<ref>[[Sử ký]], ''Tần Thuỷ Hoàng bản kỷ''</ref> tức là thôn tính đất hai tiểu quốc Tây Chu và Đông Chu tách ra từ đất nhà Chu trước đây.
 
Tính từ [[Chu Vũ Vương]] đến Chu Noản vương, thì nhà Chu gồm có 37 vua, nếuĐông tínhChu cảquân thực tế không phải [[thiên tử]] nhà Chu mà lúc ấy vẫn là vua của nước Đông Chu. Tuy nhiên các sử gia đời sau bởi đề cao chính thống nên chép thời gian 7 năm sau khi nhà Chu diệt vong là thời kỳ trị vì của ông, họ tính '''Đông Chu quân''' thìlà vua cuối cùng do đó nhà Chu mới thành 38 vua vậy.
 
==Xem thêm==
Hàng 68 ⟶ 62:
* [[Tần Trang Tương Vương]]
* [[Chu Noản Vương]]
* [[Tây Chu (nước)|Tây Chu]]
* [[Đông Chu (nước)|Đông Chu]]
* [[Tây Chu Hoàn công]]
* [[Đông Chu Huệ công]]
 
==Tham khảo==
Hàng 73 ⟶ 71:
* Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành (1998), ''Cố sự Quỳnh Lâm'', NXB Thanh Hoá
* Phương Thi Danh (2001), ''Niên biểu lịch sử Trung Quốc'', NXB Thế giới
* tiểu thuyết lịch sử [[Đông Chu liệt quốc]]
 
==Chú thích==