Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 6:
Nguyễn Thông (阮通) sinh ngày [[28 tháng 5]] năm [[1827]] tại làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh [[Gia Định]] (nay thuộc xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh [[Long An]])<ref>Theo quyết định chia huyện năm 1981 [http://vbqppl.moj.gov.vn/law/vi/1981_to_1990/1989/198904/198904040001].</ref>.
Thân phụ ông là Nguyễn Hanh, người Tân Thạnh (tỉnh Gia Định), kết hôn cùng bà Trịnh Thị A Mầu nguyên quán ở [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]], sinh hạ được hai trai là Nguyễn Thông và Nguyễn Hài.
 
Thuở nhỏ, hai anh em ông được cha dạy dỗ. Năm Nguyễn Thông 10 tuổi thì mẹ mất, 17 tuổi thì cha mất, hai anh em phải vất vả kiếm sống. Rất ham học nhưng không có thầy, Nguyễn Thông cùng em tự học. Đến khi Nguyễn Nhữ Hiền được bổ làm Tri phủ ở Tân An, hai anh em ông liền đến xin thọ giáo. Nhưng học chẳng được lâu, vì thầy dạy phải trở về kinh <ref>[http://www.vinhlong.gov.vn/Default.aspx?tabid=338&categoryId=24&itemId=36 Theo Website tỉnh Vĩnh Long]</ref>.
 
Năm [[1844]], Nguyễn Thông ra học ở [[Huế]]. Năm [[1849]], ông thi đậu [[cử nhân (định hướng)|cử nhân]] nhưng thi hội bị đánh hỏng vì tập bài thi bị lấm mực. Biết văn tài của Nguyễn Thông, nhiều người khuyên nên đợi để thi khoa sau. Nhưng vì nhà nghèo không thể tiếp tục học, Nguyễn Thông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong, tỉnh [[An Giang]].
 
Sáu năm sau ([[1855]]), ông được triệu ra [[Huế]], năm sau được thăng Hàn lâm viện tu soạn, tham gia soạn sách "Nhân sự kim giám" (''gương vàng soi việc người'').
 
Năm [[1859]], khi [[đế quốc thực dân Pháp|thực dân Pháp]] xâm chiếm miền Đông [[Nam Kỳ]], ông xin tòng quân và được cử làm tham mưu (coi việc cơ mật) cho tướng [[Tôn Thất Hiệp (định hướng)|Tôn Thất Hiệp]]. Năm [[1861]], [[đại đồn Chí Hòa]] thất thủ, ông được thăng từ Vệ úy lên Chưởng vệ, sung chức Phó đề đốc, để hiệp cùng [[Trương Định]] chống giặc.
 
Năm [[1862]], triều đình Huế cắt ba tỉnh miền Đông [[Nam Kỳ]] cho Pháp, ông đến Phước Tuy ([[Bà Rịa]]). Được [[Phan Thanh Giản]] đề cử, ông trở về [[Vĩnh Long]] giữ chức Đốc học từ năm [[1863]] đến [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[1864]]. Thời gian này, ông đã cho xây dựng lại [[Văn Thánh Miếu Vĩnh Long]] và đồng thời liên lạc chặt chẽ với các tổ chức chống Pháp. Cùng trong thời gian này, ông cùng các bạn đồng môn đã tổ chức cải táng [[Võ Trường Toản]] từ Chí Hòa về [[Ba Tri]] ([[Bến Tre]]) vì không muốn mộ phần thầy nằm trên đất của đối phương.
 
Năm [[1867]], ba tỉnh miền Tây [[Nam Kỳ]] cũng bị Pháp xâm chiếm, ông cùng với nhiều sĩ phu Nam Kỳ không chịu hợp tác, nên đã tị địa ra tại [[Bình Thuận]].
Dòng 22:
Năm [[1867]], Nguyễn Thông được cử làm Án sát [[Khánh Hòa]] rồi [[Quảng Ngãi]]. Thời gian này ông dâng sớ lên triều đình, để biện bạch cho Phan Thanh Giản, đồng thời dâng bốn bản điều trần về kế sách hưng thịnh quốc gia cho vua [[Tự Đức]]. Tuy nhiên, tất cả đều không được chấp nhận vì sự gièm pha của các đại thần khác chánh kiến trong triều.
 
Năm [[1870]], ông tham gia chấm thi trường [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên]], kết thân với [[Phạm Phú Thứ]], [[Nguyễn Tư Giản]], [[Đỗ Đăng Đệ]]...rồi làm Biện lý [[bộ Hình]], Bố chánh [[Quảng Ngãi]]. Ở đây, Nguyễn Thông đã tích cực thi hành những biện pháp để bài trừ nạn tham ô, hà hiếp dân chúng của bọn cường hào ác bá địa phương. Việc làm này của ông đã đụng chạm tới quyền lợi của một số đại thần trong triều, vì vậy không lâu sau ông bị cách chức, tống giam và bị xử trượng, sau nhờ dân chúng kêu oan tới vua, mới được giải tội.
 
Năm [[1873]], ông xin về dưỡng bệnh tại Sơn Trung ([[Bình Thuận]]), kết bạn cùng các thân hào trí thức địa phương, đồng thời thực hiện các hoạt động khai khẩn.
Dòng 36:
Năm [[1881]], Nguyễn Thông được bổ làm Phó sứ điển nông kiêm đốc học tỉnh Bình Thuận. Năm sau thăng Hồng lô tự khanh. Năm 1883, kinh thành thất thủ, Tự Đức băng hà, ông ra [[Huế]] thọ tang vua.
 
[[Tháng tư|Tháng 4]] năm [[1884]], ''Ngọa Du Sào văn tập'' của ông ra đời. [[Tháng sáu|Tháng 6]] năm đó, ông viết di chúc... Ông mất ngày [[7 tháng 7]] năm [[1884]] (tức ngày [[27 tháng 8]] năm [[Giáp Thân]]), thọ 57 tuổi.
Mộ phần của ông đặt ở đồi Ngọc Lâm, sát chân núi Ngọc Sơn, đối diện với [[PôshanưTháp Po Sah Inư|Tháp Chăm Pôshanư]], [[Lầu Ông Hoàng|Lầu ông Hoàng]] và Bửu Sơn Tự thuộc phường Phú Hài, trên con đường từ [[Phan Thiết]] đi [[Mũi Né]].
 
==Gia đình==
[[Tập tin:Ngọa Du Sào.jpg|nhỏ| Ngọa Du Sào (trong khuôn viên [[trường Dục Thanh]]) do Nguyễn Thông xây dựng để có nơi làm thơ, đọc sách. Năm [[1910]], [[Hồ Chí Minh|Nguyễn Tất Thành]] đến đây dạy học, cũng từng đọc sách tại đây.]]
Ông kết hôn với bà Ngô Thị A Thúy (Ngô Thị Tý), cháu cố của [[Ngô Nhân Tịnh]], sinh hạ được hai người con trai là [[Nguyễn Trọng Lội]] (hay '''Lỗi''') và [[Nguyễn Quý Anh]] (cả hai đều là nhà duy tân cải cách trong [[phong trào Duy Tân]]) và ba người con gái. Ngoài ra, ông còn có một người con trai và một người con gái với người vợ kế họ Đoàn <ref>Theo "phả hệ của Nguyễn Thông", in trong "Nguyễn thông, con người và tác phẩm" của [[Ca Văn Thỉnh]] và [[Bảo Định Giang]], NXB TP. HCM, 1984</ref>.
 
Dòng 67:
|TÊN=Nguyễn Thông
|TÊN KHÁC=
|TÓM TẮT=nhà thơ, nhà văn và [[nhà hoạt động xã hội]] ở [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]]
|LÚC SINH=[[28 tháng 5]], [[1827]]
|NƠI SINH=làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện [[Tân Thạnh]], phủ [[Tân An]], tỉnh [[Gia Định]], [[Quốc hiệu Việt Nam#Đại Nam|Đại Nam]]