Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Olivin”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{Reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 40:
[[Tập tin:Green sand close up.jpg|nhỏ|200px|trái|Cát lục là tinh thể olivin, bị bào mòn từ đá [[núi lửa]]]]
[[Tập tin:Peridot in basalt.jpg|nhỏ|trái|200px|Peridotit xenolith trong bazan--olivin là các tinh thể màu lục. Địa điểm: Vùng dành riêng cho người da đỏ San Carlos, quận Gila, Arizona, Hoa Kỳ.]]
Olivin được đặt tên xuất phát từ màu lục đặc trưng (sự có mặt của [[niken]]) của nó , nó có thể chuyển sang màu đỏ khi sắt bị ôxi hóa. Olivin có [[mặt gãy (tinh thể)|mặt gãy]] [[vỏ sò]] và đôi khi [[dễ vỡ]]. Độ cứng của olivin theo [[thang độ cứng Mohs]] là 6,5–7, [[khối lượng riêng|tỷ trọng riêng]] khoảng 3,27–3,37 và có [[ánh]] từ [[thủy tinh]] trong suốt đến mờ.
 
Olivin trong suốt đôi khi được sử dụng làm [[ngọc|đá quý]]. Olivin còn được gọi là crysolit, theo [[tiếng Hy Lạp]] dùng để chỉ [[vàng]] và đá. Olivin hạt mịn có thể được tìm thấy trong đá [[lớp phủ (địa chất)|lớp phủ]] trên đảo [[Zabargad]], [[biển Đỏ]].
 
Olivin/peridot có mặt trong cả [[đá xâm nhập]] [[mafic]] và [[siêu mafic]], và ở dạng [[khoáng vật]] [[nguyên sinh]] trong các [[đá biến chất]]. Olivin giàu Mg kết tinh từ [[macma|magma]] giàu [[magiê]] và ít [[silic điôxít|silica]]. Các đá kết tinh từ mácma mafic như [[gabro|gabbro]] và [[đá bazan|bazan]]. Các đá siêu mafic như [[peridotit]] và [[dunit]] là phần kết tinh trước các đá mafic, và chúng thường chứa nhiều olivin. Olivin và các biến thể khác của nó chiếm hơn 50% [[lớp phủ (địa chất)|quyển manti]] trên của Trái đất, và olivin là một trong những khoáng vật phổ biến trên Trái đất nếu tính theo khối lượng. [[Quá trình biến chất]] từ [[dolomit]] không tinh khiết hoặc các [[đá trầm tích]] chứa nhiều magiê và ít silica cũng tạo ra olivin giàu Mg hay forsterit.
 
Olivin giàu [[sắt]] ít phổ biến hơn, và có mặt trong các [[đá mácma]] xâm nhập với lượng nhỏ. Olivin này rất hiếm gặp trong đá [[đá hoa cương|granit]] và [[rhyolit|ryolit]]. Olivin rất giàu Fe có thể tồn tại cùng với [[thạch anh]] và [[tridymit]], nhưng olivin giàu Mg không thể có mặt cùng với các [[khoáng vật]] [[silic điôxít|silica]] vì chúng sẽ phản ứng với nhau để tạo ra [[Pyroxen#orthopyroxen|orthopyroxen]], (Mg,Fe)<sub>2</sub>Si<sub>2</sub>O<sub>6</sub>.
 
Olivin giàu [[Magiê]] bền vững với các áp suất tương đương với độ sâu khoảng 410&nbsp;km trong lòng đất. Do nó được coi là khoáng vật phong phú nhất tại các độ sâu nhỏ hơn của [[lớp phủ (địa chất)|quyển manti]], nên các tính chất của olivin cũng ảnh hưởng đến [[lưu biến học]] trong phần này của Trái Đất và vì thế là tới các dòng vật chất rắn tạo ra các [[mảng kiến tạo]]. Các nghiên cứu cho thấy olivin ở áp suất cao (khoảng 12 [[Pascal (đơn vị)|GPa]], tương ứng với độ sâu khoảng 360&nbsp;km hoặc lớn hơn) có thể chứa ít nhất khoảng 8.900 [[phầnppm triệu(mật độ)|ppm]] (khối lượng) nước. Lượng nước này làm giảm đáng kể sự cản trở của olivin đối với dòng chất rắn; hơn thế nữa, do lượng olivin là quá nhiều, nên lượng nước hòa tan trong olivin có thể lớn hơn cả nước có trong [[đại dương]].<ref>Smyth J. R., Frost D. J., Nestola F., Holl C. M., Bromiley G., ''Olivine hydration in the deep upper mantle: Effects of temperature and silica activity.'' Geophysical Research Letters, quyển 33, L15301, doi:10.1029/2006GL026194, 2006</ref>
 
Olivin giàu Magiê cũng được tìm thấy trong [[thiên thạch]], trên sao Hỏa, và Mặt Trăng của Trái Đất. Các thiên thạch này gồm [[chondrit]], được thu thập từ các mảnh vỡ trong hệ Mặt Trời cổ; và [[pallasit]] là hỗn hợp của sắt-niken và olivin. Tín hiệu quang phổ của olivin cũng được phát hiện trong đám mây bụi xung quanh các ngôi sao trẻ. Đuôi các sao chổi (được hình thành từ đá mây bụi xung quanh [[Mặt Trời]] trẻ) thường cũng có tín hiệu quang phổ của olivin. Olivin cũng có mặt trong các mẫu của một sao chổi được thu thập gần đây bởi [[Stardust (tàu vũ trụ)#Phân tích mẫu|phi thuyền Stardust]].<ref>[http://stardust.jpl.nasa.gov/news/status/060313.html Thông cáo báo chí 06-091]. NASA: Jet Propulsion Laboratory: website về Stardust, tra cứu 30-5-2006.</ref>
Dòng 60:
 
== Sự đa hình ở nhiệt độ cao ==
Ở nhiệt độ và áp suất cao trong lòng đất, cấu trúc olivin sẽ không còn bền vững. Bên dưới độ sâu khoảng 410&nbsp;km olivin bị biến đổi ([[chuyển pha]]) thành [[khoáng vật silicat#silicat đảo kép|silicat đảo kép]], [[wadsleyit]]. Ở độ sâu khoảng 520&nbsp;km, wadsleyit biến đổi thành [[ringwoodit]], là một cấu trúc của [[spinen]]. Sự chuyển pha này dẫn đến sự tăng gián đoạn [[khối lượng riêng|tỷ trọng riêng]] của [[lớp phủ (địa chất)|quyển manti]] của Trái Đất, được nghiên cứu bằng phương pháp [[động đất|địa chấn]].
 
Áp suất mà tại đó có sự chuyển pha còn tùy thuộc vào nhiệt độ và hàm lượng sắt.<ref>{{chú thích sách | last = Deer | first = W. A. | authorlink = | coauthors = R. A. Howie và J. Zussman | title = An Introduction to the Rock-Forming Minerals (ấn bản lần 2) | publisher = Longman | date = 1992 | location = London | pages = 696 trang | url = | doi = | isbn = 0-582-30094-0}}</ref>
 
Ở nhiệt độ 800&nbsp;°C khoáng vật chỉ có magiê là forsterit chuyển thành wadsleyit ở áp suất 11,8 [[Pascal (đơn vị)|GPa]] (118 kbar) và tạo thành ringwoodit ở áp suất trên 14 GPa (140 kbar). Sự gia tăng hàm lượng sắt làm giảm sáp suất của sự chuyển pha và thu hẹp sự bền vững của [[wadsleyit]]. Với khoảng 0,8 [[mol]] fayalit, olivin chuyển trực tiếp thành ringwoodit trong điều kiện áp suất trong khoảng 10–11,5 GPa (100–115 kbar). Fayalit chuyển thành Fe<sub>2</sub>SiO<sub>4</sub> spinen ở áp suất dưới 5 GPa (50 kbar). Nhiệt độ tăng làm tăng áp suất của sự chuyển pha.
 
== Sử dụng ==
Trên thế giới, người ta tìm những phương pháp rẻ tiền để hạn chế phát thải CO<sub>2</sub> vào khí quyển bằng các phản ứng với khoáng vật. Trong đó, việc CO<sub>2</sub> phản ứng với olivin là một lựa chọn, bởi vì olivin rất phổ biến và dễ dàng tác dụng với (axít) CO<sub>2</sub> từ khí quyển. Khi olivin được nghiền ra, nó sẽ bị [[phong hoá|phong hóa]] chỉ trong vài năm, điều này còn tùy thuộc vào cỡ hạt được nghiền. Tất cả CO<sub>2</sub> sinh ra khi đốt cháy 1 lít dầu có thể phản ứng (tách CO<sub>2</sub> từ khí thải) với ít hơn 1 lít olivin. Đây là [[phản ứng tỏa nhiệt]] và diễn ra chậm. Lượng nhiệt tỏa ra được dùng để phát điện, do vậy một lượng lớn olivin phải được tách ra bằng nhiệt. Trong quá trình tạo ra điện, cũng là lúc tách CO<sub>2</sub>. Sản phẩm cuối cùng của phàn ứng này là [[silic điôxít|điôxít silic]] (SiO<sub>2</sub>), [[cacbonat magiê]] (MgCO<sub>3</sub>) và một lượng nhỏ [[ôxít sắt]].<ref>http://www.netl.doe.gov/publications/proceedings/01/carbon_seq/6c1.pdf</ref><ref>[http://www.springerlink.com/index/78528604337V3773.pdf SpringerLink Home - Main]</ref><ref>[http://www.rockcollector.co.uk/infocus/olivine.asp The Guide to Rocks and Minerals]</ref>
 
Trong công nghiệp đúc nhôm, cát olivin được sử dụng làm [[khuôn đúc]]. Cát olivin cần phải có ít nước hơn cát silic, trong khi đúc cần giữ cho khuôn chắc chắn trong lúc đổ kim loại vào và rót kim loại ra. Càng ít lượng nước thì càng ít khí (hơi nước) thoát ra từ khuôn khi kim loại được đổ vào khuôn.<ref>{{chú thích sách | last = Ammen | first = C.W. | authorlink = | coauthors = | title = The Metal Caster's Bible | publisher = TAB | date = 1980 | location = Blue Ridge Summit PA | pages = 331 trang | url = | doi = | isbn = 0-8306-9970-8}}</ref>