Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Petronius Maximus”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tài liệu tham khảo: clean up, replaced: {{Reflist| → {{Tham khảo|
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 2:
| name =Petronius Maximus
| full name = Flavius Anicius Petronius Maximus
| title = [[Hoàng đế La Mã|Hoàng đế]] của [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã]]
| image = Solidus Petronius Maximus-RIC 2201.jpg
| caption = Đồng tiền ''[[Solidus (coin)|Solidus]]'' của hoàng đế Petronius Maximus.
| reign = 17 tháng 3 – 31 tháng 5, 455
| predecessor = [[Valentinianus III|Valentinian III]]
| successor = [[Avitus]]
| spouse 1 = có thể là Lucina
Dòng 17:
| date of death = 31 tháng 5, 455 (60 tuổi)
|}}
'''Flavius Petronius Maximus'''<ref>Jones & Martindale, pg. 749</ref> (tên gọi đầy đủ là '''Flavius Anicius Petronius Maximus''')<ref>Drinkwater, pgs. 117-118</ref> ([[396]] – [[455]]<ref>Drinkwater, pg. 118; Norwich, John Julius, ''Byzantium: The Early Centuries'', Penguin, 1990, pg. 162</ref>) là [[Hoàng đế Tây La Mã]] trị vì được khoảng hai tháng rưỡi vào năm 455. Ông là một [[Nguyên lão]] giàu có và một nhà quý tộc xuất chúng, là người chủ mưu vụ ám sát viên Tổng tư lệnh quân đội (''[[Magister militum]]'') Tây La Mã [[Flavius Aetius|Flavius Aëtius]], và là Hoàng đế Tây La Mã [[Valentinianus III|Valentinian III]]. Maximus bị giết chết trong sự kiện [[Vụ cướp phá Rome năm 455|quân Vandal cướp phá thành Rome vào năm 455]].
 
==Tiểu sử==
===Sự nghiệp ban đầu===
Petronius Maximus sinh vào năm [[396]].<ref>Drinkwater, pg. 118</ref> Mặc dù nguồn gốc xuất thân của ông ít người biết đến, nhưng nó cũng cho biết ông xuất thân trong gia tộc [[Anicii]].<ref>Drinkwater, pg. 117</ref> Ông có quan hệ họ hàng với Hoàng đế [[Olybrius]] sau này, Maximus là con của [[Anicius Probinus]]<ref>Drinkwater, pg. 120</ref>, con của [[Anicia Faltonia Proba]] với [[Sextus Claudius Petronius Probus]]<ref>Drinkwater, pg. 112</ref>, quan [[Thái thú]] [[Illyricum]] vào năm [[364]], Thái thú xứ [[Gallia|Gaul]] năm [[366]], Thái thú nước [[Ý]] năm [[368]]–[[375]], được tái bổ nhiệm một lần nữa vào năm [[383]] và được phong làm [[chấp chính quan]] vào năm [[371]].
 
Maximus đã đạt được một số thành tựu quan trong trong sự nghiệp ban đầu của ông. Chức vụ đầu tiên ông nắm giữ là [[pháp quan]] vào năm [[411]]<ref name="Mathisen, ''Petronius Maximus''">Mathisen, ''Petronius Maximus''</ref>, năm [[415]], được bổ nhiệm làm [[tribunus et notaries]] một vị trí bắt đầu trong triều đình quan liêuu, lần lượt được thăng chức [[Comes sacrarum largitionum]] (Nắm giữ việc cứu tế thiêng liêng) giữa năm [[416]] và [[419]].<ref name="Mathisen, ''Petronius Maximus''"/>
Dòng 35:
 
===Lên ngôi===
Cái chết tàn bạo và đột ngột của Valentinian III khiến cho [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã]] không có người kế vị nào danh chính ngôn thuận, một vài ứng củ viên thì do một vài nhóm thuộc giới quân sự và quan lại bầu lên. Vào lúc này sự ủng hộ của quân đội bị chia đều cho ba ứng cử viên khác, [[Maximianus]], nguyên là vệ binh ([[domesticus]]) của Aetius, con của một thương nhân [[Ai Cập]] giàu có ở Ý tên Domninus, hoàng đế tương lai [[Majorianus|Majorian]], chỉ huy quân đội sau cái chết của Aetius và là người đã từng giúp đỡ nữ hoàng [[Licinia Eudoxia]], và người được sự ủng hộ của [[Viện nguyên lão La Mã]] là Maximus. Ngày [[17 tháng 3]] năm 455, Petronius Maximus chính thức làm lễ đăng quang ngôi vị hoàng đế của Đế chế Tây La Mã.<ref name="Mathisen, ''Petronius Maximus''"/>
===Thời kỳ trị vì===
Sau khi lên ngôi hoàng đế, Maximus củng cố quyền lực của ông bằng cách kết hôn ngay lập tức với Licinia Eudoxia, góa phụ của Valentinian III.<ref>"Jones & Martindale, pg. 751"</ref> Tuy nhiên [[Đế quốc Đông La Mã|Đế chế Đông La Mã]] ở [[Constantinopolis|Constantinople]] từ chối công nhận danh hiệu hoàng đế của Maximus. Để bảo đảm vị trí vững chắc của mình, Maximus bổ nhiệm [[Avitus]] chức [[Tổng chỉ huy quân đội]], và phái ông này đến [[Toulouse]] để tìm kiếm sự ủng hộ và trợ giúp của người [[Visigoth]].<ref>Canduci, pg. 161-163; Cameron, pg. 20</ref> Đồng thời ông còn tiến hành hủy hôn ước của Eudocia (con gái của Licinia) với [[Huneric]], con trai của vua người [[Người Vandal|Vandal]], [[Geiseric]]. Điều này khiến cho Geiseric nổi giận và quyết định thống lĩnh quân đội chuẩn bị tiến hành xâm lược nước Ý.<ref>Cameron, pg. 125</ref>
 
Tin Geiseric và hạm đội của ông ta sắp sửa đột kích nước Ý đã khiến sự lo sợ, hoang mang lan truyền khắp Rome, buộc cư dân và binh sĩ phải chuẩn bị chiến đấu<ref name="Mathisen, ''Petronius Maximus''"/>, hoàng đế nhận thấy Avitus không được sự trợ giúp của người Visigoth, cũng không tổ chức phòng thù nước Ý, đã quyết định bỏ trốn khỏi Ý, tuy nhiên vào lúc này, ông đã đánh mất sự ủng hộ của người dân và Viện nguyên lão La Mã, và bị đám tùy tùng, thuộc hạ và binh sĩ bỏ rơi.<ref name="Mathisen, ''Petronius Maximus''"/>
Dòng 44:
Ngày [[31 tháng 5]] năm 455, Maximus trong khi chạy trốn đã bị một đám đông dân chúng La Mã chặn đường ném đá cho tới chết.<ref>Có nguồn nói rằng ông bị "một người lính La Mã tên là Ursus" giết chết</ref><ref>{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=zGY1Sqjwf8kC&pg=PA37&dq=Eparchius+Avitus+bishop+placentia&hl=en&ei=iJy0TfioLouksQOZ9_j3Cw&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=2&ved=0CC4Q6AEwAQ#v=onepage&q=Eparchius%20Avitus%20bishop%20placentia&f=false|title=Handbook of Life in Ancient Rome|author=Lesley Adkins, Roy A. Adkins|pages=37|publisher=Infobase Publishing|date=2004}}</ref> Xác của ông bị cắt ra thành từng khúc và ném xuống sông [[Tiber]].<ref>"Mathisen, ''Petronius Maximus''"; Canduci, pg. 161</ref> Kết thúc thời kỳ trị vì chỉ kéo dài có bảy mươi tám ngày của hoàng đế Maximus.
 
Người con trai từ cuộc hôn nhân đầu tiên của ông là [[Palladius]], người từng giữ danh hiệu [[Julius Caesar|Caesar]] từ ngày 17 tháng 3 cho đến ngày 31 tháng 5 và kết hôn với người em cùng cha khác mẹ Eudocia, cũng bị dân chúng hành quyết chết cùng cha mình.<ref>Cameron, pg. 21; "Mathisen, ''Petronius Maximus''"</ref>
 
Vào ngày [[2 tháng 6]] năm 455, ba ngày sau cái chết của Maximus, Geiseric đích thân dẫn quân công phá chiếm được Rome và cướp phá thành phố này trong vòng hai tuần lễ. Sau cùng, nhờ lời cầu xin của [[Giáo hoàng Leo I]] mà người Vandal chấm dứt các hoạt động tàn phá, cướp bóc, phóng hỏa, tra tấn và giết người tại Rome. kết quả là Geiseric rút khỏi Rome, mang theo một khối lượng chiến lợi phẩm to lớn cùng nữ hoàng Licinia Eudoxia và hai cô con gái, Placidia và Eudocia.<ref>Norwich, ''Byzantium: The Early Centuries'', pg. 162</ref>
Dòng 64:
{{s-hou|[[Triều đại Theodosius]]||396|31 May|455}}
{{s-reg}}
{{s-bef | before=[[Valentinianus III|Valentinian III]]}}
{{s-ttl | title=[[Hoàng đế Tây La Mã]] | years=455 }}
{{s-aft | after=[[Avitus]] }}
{{s-off}}
{{s-bef | before=[[Flavius Aetius]],<br /> [[Valerius (consul 432)|Flavius Valerius]] }}
{{s-ttl | title=[[Danh sách quan chấp chính Đế chế La Mã|Quan chấp chính]] của [[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]] | years=433 |regent1=[[Theodosius II|Imp. Caesar Flavius Theodosius Augustus]] XIV }}
{{s-aft | after=[[Aspar|Flavius Ardaburius Asparus]],<br /> [[Areobindus (consul 434)|Flavius Areobindus]] }}
 
{{s-bef | before= [[Dioscorus (quan chấp chính năm 442)|Flavius Dioscorus]],<br /> [[Eudoxius (quan chấp chính 442)|Flavius Eudoxius]] }}
{{s-ttl | title=[[Danh sách quan chấp chính hậu Đế chế La Mã|Quan chấp chính]] của [[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]] | years=443 |regent1= [[Paterius (chấp chính quan năm 443)|Flavius Paterius]] }}
{{s-aft | after=[[Theodosius II|Imp. Caesar Flavius Theodosius Augustus]] XVIII,<br /> [[Caecina Decius Aginatius Albinus (consul 444)|Caecina Decius Aginatius Albinus]] }}
{{end}}