Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phong trào chống đối Hitler”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.2+) (Bot: Sửa en:German Resistance to Nazism
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Phong trào chống đối Hitler''' gồm những hoạt động của một số người chống đối [[Adolf Hitler]] với mục đích chính ban đầu là ''lật đổ'' Hitler và đưa ông ra tòa để ngăn ông gây chiến tranh mà họ nghĩ sẽ đem đến chiến bại cho nước Đức. Kế tiếp, khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]] đã bùng phát, những người chống đối muốn ngăn chặn việc Đức bị thất trận nhục nhã, cần vớt vát ít nhiều bằng cách ''ám sát'' Hitler và đàm phán với [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]].
 
== Bước khởi đầu của Phong trào chống Hitler ==
Dòng 18:
Có những người khác, ít được biết đến hơn và đa số trẻ hơn, chống đối Hitler ngay từ đầu và dần dà kết hợp với nhau để tạo thành những nhóm khác nhau. Có nhà trí thức, có nhà lãnh đạo nghiệp đoàn. Có hai sĩ quan Gestapo: [[Artur Nebe]], chỉ huy cảnh sát hình sự, và [[Bernd Gisevius]], một sĩ quan cảnh sát chuyên nghiệp trẻ, trở nên những phụ tá đắc lực cho nhóm âm mưu. Gisevius đóng góp nhiều thông tin cho các công tố viên của Mỹ tại [[Tòa án Nürnberg]]. Ông viết một quyển sách đưa ra ánh sáng nhiều chi tiết trong các âm mưu chống Hitler, tuy phần đông các nhà sử học và tác giả này nửa tin nửa ngờ.
 
Có một số người trẻ tuổi thuộc dòng dõi của những gia đình tiếng tăm ở Đức: Bá tước [[Helmuth von Moltke]], dòng dõi một Thống chế lừng danh, sau này lập nên Nhóm Kreisau; Bá tước [[Albrecht von Bernstorff]], cháu của đại sứ Đức tại [[Hoa Kỳ]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến I]]; [[Freiherr Karl Ludwig von Gutenberf]], chủ bút không hề biết sợ của một nguyệt san Công giáo; Mục sư [[Dietrich Bonhoeffer]] thuộc gia tộc giáo sĩ Tin lành có tiếng tăm ở hai bên nội ngoại, người xem Hitler là kẻ phản Chúa và tin rằng nhiệm vụ của người theo Cơ đốc là phải trừ khử ông.
 
Phần lớn những người trẻ dũng cảm này đều kiên trì cho đến khi bị Quốc xã bắt giam, tra tấn rồi xử tử hoặc chỉ việc giết bỏ.
Dòng 43:
Khi nói chuyện với Jodl ngày [[8 tháng 9]], [[1937]], Tướng [[Karl-Heinrich von Stülpnagel]], thuộc Tổng cục Hậu cần của Bộ Tổng tham mưu và cũng tham gia vào nhóm âm mưu đảo chính của Halder, yêu cầu báo cho Bộ Tổng tham mưu trước 5 ngày về lệnh của Hitler tấn công qua Tiệp Khắc. Đại tướng Cấp cao [[Alfred Jodl]], Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ Tổng tham mưu Quân lực, trả lời rằng vì lý do thời tiết thất thường, chỉ có thể đảm bảo báo trước 2 ngày. Như thế là đủ cho nhóm âm mưu.
 
Nhưng họ cần sự đảm bảo theo phương diện khác: liệu giả định của họ – là Anh và Pháp sẽ gây chiến với Đức nếu Đức tấn công Tiệp Khắc – có đúng hay không. Họ phái nhân viên thân tín đi [[Luân Đôn|London]] để tìm hiểu, và nếu cần, cố gắng gây ảnh hưởng lên phía [[Vương quốc Anh]] bằng cách thông báo tướng lĩnh Đức chống đối cuộc tấn công và sẽ có hành động quyết liệt nếu Anh cứng rắn với Hitler cho đến cùng.
 
Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh [[Arthur Neville Chamberlain]] ủng hộ giải pháp Tiệp Khắc nhượng vùng [[Sudentenland]] cho Đức, nhưng cần đạt sự thỏa thuận của Pháp trước khi thúc đẩy thêm. Ông đi hội kiến với Hitler hai lần: tại Berchtesgaden ngày 15 tháng 9, 1938 và tại Godesberg ngày 22-23 [[tháng chín|tháng 9]], [[1938]].
 
Do những phản ứng bất lợi của [[Nam Tư]], [[Romania|Rumani]], Pháp, Hoa Kỳ, [[Thụy Điển]]... cùng sự thờ ơ của Ý, ngày [[27 tháng 9]] năm [[1938]], Hitler gửi cho Chamberlain một lá thư có ngôn từ được tính toán một cách tuyệt diệu để lay chuyển Chamberlain: Đức sẵn sàng đàm phán những chi tiết với Tiệp Khắc, sẵn sàng “nghiêm túc đảm bảo cho phần còn lại của Tiệp Khắc.”
 
Đối với vài tướng lĩnh và trên hết đối với Tướng Tham mưu trưởng Lục quân Halder, đã đến lúc thực hiện âm mưu nhằm lật đổ Hitler và tránh cho Tổ quốc lâm vào một cuộc chiến mà họ nghĩ Đức sẽ bại trận. Suốt [[tháng chín|tháng 9]], theo lời kể sau này của người sống sót, các nhân vật trong nhóm âm mưu luôn bận rộn. Erich Kordt, thư ký trưởng của Ribbentrop tại Bộ Ngoại giao, cũng là nhân vật tham dự quan trọng và sống sót sau chiến tranh. Tại Tòa án Nürnberg, ông soạn một bản ghi nhớ dài về những sự kiện trong tháng 9, 1938. Halder, Gisevius và Schacht đều kể lại về âm mưu này, nhưng mỗi người đều cung cấp chi tiết khó hiểu, và ở vài điểm còn mâu thuẫn với nhau. Cần nhớ rằng ban đầu cả ba đều phục vụ chế độ Quốc xã, vì thế sau chiến tranh cố chứng tỏ họ chống đối Hitler và yêu chuộng hòa bình.
 
Tướng Halder luôn liên lạc với Đại tá Oster và sếp của ông này tại Cục Quân báo, Đô đốc Canaris, người cung cấp thông tin về động thái chính trị của Hitler và của tình báo nước ngoài.
Dòng 129:
Có một yếu tố nữa mà các tướng lĩnh nêu ra và mọi người đều thấy đúng lý. Một vụ nổi loạn chống Hitler có thể gây hoang mang cho quân đội và đất nước nói chung, khi ấy liệu Anh và Pháp có thể đánh qua miền Tây, chiếm lấy Đức rồi áp đặt nền hòa bình ngặt nghèo cho người Đức – cho dù đã loại được Hitler? Vì thế, cần phải giữ mối liên lạc với Anh hầu đi đến sự thấu hiểu rằng Đồng minh không nên lợi dụng vụ đảo chánh mà chống Quốc xã.
 
Họ có nhiều kênh liên lạc. Một kênh là [[Tòa Thánh|Tòa thánh Vatican]] thông qua TS. Josef Müller, một luật sư nổi danh ở München. Qua sự sắp xếp của Đại tá Oster ở Cục Quân báo, vào đầu tháng 10 Müller đi đến [[Roma]] và thiết lập liên lạc với Công sứ Anh ở Tòa thánh. Theo những nguồn tin của Đức, ông nhận được đảm bảo của Anh và được Giáo hoàng đồng ý làm trung gian giữa chế độ mới chống Quốc xã và Anh.
 
Kênh khác là ở [[Bernes]], [[Thụy Sĩ]]. Tại đây, Weizsäcker đã bổ nhiệm Theodor Kordt, lúc trước làm đại biện lâm thời tại London, làm đại biện lâm thời tại Thụy Sĩ. Kordt bắt liên lạc với TS. Philip Conwell-Evans, giáo sư người Anh tại Đại học [[Koenigsberg]]. Kordt nhận từ Conwell-Evans một bản văn nói là lời cam kết long trọng của Chamberlain đối với chế độ mới. Thật ra, đấy chỉ là lời phát biểu của Chamberlain trước Nghị viện rằng Anh không có mưu đồ ở Đức. Lời phát biểu thân thiện với người dân Đức đã được truyền thanh rộng rãi, nhưng nhóm âm mưu vẫn cho đấy là quan trọng. Thế là, với hai nguồn đảm bảo từ Anh, nhóm âm mưu quay sang quân đội, là mối hy vọng duy nhất của họ.
Dòng 153:
Brauchitsch khai trước Tòa án Nürnberg: “Không thể nào tiếp tục cuộc thảo luận. Nên tôi ra về.” Những người khác còn nhớ là ông thất thểu đi vào tổng hành dinh ở Zossen, trong tình trạng bị sốc nặng đến nỗi lúc đầu ông không thể kể lại rõ ràng chuyện gì đã xảy ra.
 
Đến đây là chấm dứt “Âm mưu Zossen.” Thêm một thất bại nhục nhã như “Âm mưu Halder” vào thời gian Hội nghị München. Mỗi lần đều hội đủ các điều kiện mà nhóm âm mưu đặt ra. Lần này, Hitler đã nhất quyết tiến công ngày 12/11/1939, và có chỉ thị bằng văn bản. Vì thế, nhóm âm mưu có bằng cớ rõ ràng mà họ đã nói cần có để lật đổ Hitler: lệnh tấn công vốn sẽ gây thảm họa cho nước Đức. Nhưng sau đấy, nhóm âm mưu không làm gì thêm ngoại trừ hoảng hốt. Họ nháo nhào lo thiêu hủy tài liệu và che giấu chứng tích. Các tướng lĩnh, kể cả Witzleben, hiểu rằng họ đã thua cuộc. Ít ngày sau, Tướng [[Gerd von Rundstedt|Karl von Rundstedt]], Tư lệnh Tập đoàn quân A, triệu các tư lệnh quân đoàn và sư đoàn đến để thảo luận những chi tiết của cuộc tiến quân. Trong khi bản thân vẫn còn nghi ngờ về chiến thắng, ông khuyên các tướng lĩnh của ông nên bỏ qua những nghi ngại. Ông nói: “Quân đội đã được giao nhiệm vụ, và sẽ thi hành nhiệm vụ!”
 
== Âm mưu cuối năm 1939 ==
Dòng 191:
Thất bại trên mặt trận Nga trong mùa đông 1941 và việc cách chức một số thống chế cùng tư lệnh mặt trận cao cấp làm khơi dậy hy vọng của những người âm mưu chống Quốc xã. Nhóm âm mưu cho rằng chỉ có các tướng lĩnh đang cầm quân mới có đủ sức mạnh để lật đổ nhà độc tài Quốc xã. Bây giờ còn có cơ hội trước khi quá muộn. Sau thất lại ở Liên Xô và thêm Mỹ tham chiến, họ nghĩ Đức không thể nào thắng cuộc chiến. Nhưng vẫn chưa chiến bại. Một chính phủ chống Quốc xã ở Berlin vẫn có thể nhận những điều kiện hòa bình để duy trì Đức như là một cường quốc và, có lẽ, giữ lại vài lãnh thổ do Hitler thôn tính, như Áo, Sudetenland và tây Ba Lan.
 
Vào cuối mùa hè 1941, nhóm âm mưu vẫn còn nghĩ như thế, khi vẫn còn có triển vọng tiêu diệt Liên Xô. Nhưng họ bị giáng một đòn nặng. Hiến chương Đại Tây Dương do Thủ tướng Anh [[Winston Churchill]] và Tổng thống Mỹ [[Franklin D. Roosevelt|Franklin Delano Roosevelt]] soạn thảo ngày 19/8, đặc biệt Điểm 8, quy định sau chiến tranh sẽ giải giới nước Đức trong khi chờ hiệp định giải trừ binh bị tổng quát. Hassell, Goerdeler, Beck cùng những thành viên trong nhóm thấy điều này có nghĩa là Đồng minh không có ý định phân biệt giữa người Đức theo Quốc xã và người Đức chống Quốc xã.
 
Dù mất ảo tưởng vì Hiến chương Đại Tây Dương, nhóm âm mưu vẫn thấy cần thiết phải loại trừ Hitler trong khi còn kịp đàm phán có lợi cho nền hòa bình cho một nước Đức lúc này vẫn còn chiếm nhiều phần đất của Châu Âu. Thời giờ đang cấp bách. Nhóm âm mưu nhất trí với nhau là chẳng bao lâu sẽ trở nên quá muộn. Khi cơ may thắng lợi trong cuộc chiến mất đi hoặc còn mong manh thì không còn có thể làm gì được nữa.
Dòng 248:
Cũng nhân dịp này, Hitler và Himmler xử lý luôn những người không trực tiếp tham gia vào vụ nổ bom ám sát nhưng bị nghi ngờ dính dáng ít nhiều đến phong trào chống đối. Lấy ví dụ những trường hợp này là Thống chế lừng danh [[Erwin Rommel]] bị bức tử, Bá tước [[Helmuth von Moltke]] cầm đầu Nhóm Kreisau (chỉ soạn chương trình cho nước Đức sau khi lật đổ Hitler nhưng không muốn ám sát Hitler) bị hành quyết, TS. Jens Peter Jessen (giáo sư kinh tế học tại Đại học Berlin) bị hành quyết, Tướng Halder, TS. Schacht và Thượng tướng [[Alexander von Falkenhausen]] (chỉ huy quân quản Bỉ và bắc Pháp) bị đưa vào trại tập trung cho đến khi được Đồng minh giải cứu lúc gần kết thúc chiến tranh.
 
Nhiều sĩ quan Quân đội dính líu vào âm mưu thà tự xử hơn là chịu ra trước Tòa án Nhân dân, như Tướng Henning von Tresckow. Tướng Heinrich von Stülpnagel (chỉ huy ban quân quản Pháp) cũng tự tử nhưng không chết, rồi bị hành quyết ngày 30/8/1944. Thống chế von Kluge, (Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây) tự tử sau khi bị thay thế bới Thống chế [[Walter Model|Walther Model]] và biết đã bị Hitler nghi ngờ.
 
== Vinh danh Stauffenberg ==
Dòng 256:
== Kỷ niệm 60 năm ==
 
Vào ngày [[20 tháng 7]] năm [[2004]], nước Đức tổ chức lễ kỷ niệm tròn 60 năm vụ nổ bom ám sát Hitler. Bà quả phụ Moltke 93 tuổi được mời đến dự lễ ở khu tưởng niệm (nơi Stauffenberg bị hành quyết). Bà tuyên bố: "Tôi lấy làm hãnh diện." Một người khác trong phong trào còn sống sót đến dự là Philipp von Boeselager. Thủ tướng Đức [[Gerhard Schroeder]] đọc bài diễn văn ca ngợi phong trào chống đối Hitler, còn Tổng thống [[Horst Köhler|Horst Koehler]] đặt một vòng hoa.
 
== Đọc thêm ==
{{Commonscat|Antifascist resistance}}
* [[Adolf Hitler]]
* [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]]
* [[Hermann Göring]]
* [[Heinrich Himmler]]