Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rối loạn ăn uống”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 26 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q373822 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 13:
MeshID = D001068 |
}}
'''Rối loạn ăn uống''' (tiếng Anh: ''eating disorder'') là một bệnh có nguồn gốc tâm lý, biểu hiện bằng việc người bệnh tự ép buộc mình phải [[ăn]] hoặc từ chối ăn mà không căn cứ theo nhu cầu tự nhiên của cơ thể, dẫn đến những tác hại tới sức khỏe thể chất và tinh thần. Bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống, theo lời mô tả của tác giả cuốn sách "Sống sót sau khi mắc rối loạn ăn uống" thì ''các cảm giác về công việc, trường lớp, các mối quan hệ, hoạt động hàng ngày và cảm xúc bị phụ thuộc vào việc có ăn hay không và cân nặng là bao nhiêu''<ref>Siegel, Michaele, Brisman, Judith and Weinshel, Margot. ''Surviving an Eating Disorder.'' New York: Harper and Row Publishers. 1988.</ref>. Người bệnh gặp phải những xáo trộn khủng khiếp trong hành vi ăn uống cũng như trong ý nghĩ và cảm xúc có liên quan tới các hành vi này. Chứng [[chán ăn tâm thần]] và [[chứng háu ăn|ăn ói]] (''bulimia nervosa'') là hai rối loạn ăn uống phổ biến nhất được ghi nhận trong bảng phân loại bệnh tật<ref>{{chú thích web|url = http://www.who.int/classifications/apps/icd/icd10online/?gf50.htm+f50|title = ICD-10: Behavioural syndromes associated with physiological disturbances and physical factors|publisher = [[Tổ chức Y tế Thế giới|World Health Organization]]|date = 2006-04-05|accessdate = 2007-03-08}}</ref>. Cả hai đều có một số [[triệu chứng]] chung<ref>{{chú thích|title = Instability of eating disorder diagnoses: prospective study|last1 = Milos|first1 = G|last2 = Spindler|first2 = A|last3 = Schnyder|first3 = U|last4 = Fairburn|first4 = C G|journal = The British Journal of Psychiatry|volume = 187|number = 6|pages = 573–578|year = 2005|doi = 10.1192/bjp.187.6.573|pmid = 16319411}}</ref>. Theo ước tính trong suốt cuộc đời mình một phụ nữ Hoa Kỳ có từ 5% đến 7% khả năng mắc bệnh<ref>{{chú thích|publisher = American Psychiatric Association|title = Practice guidelines for the treatment of patients with eating disorders|journal = American Journal of Psychiatry|date = January 2000|volume = 157|issue = 1|pages = 1–39}}.</ref>. Dạng rối loạn ăn uống thứ ba đang được nghiên cứu và định nghĩa, nó có tên là [[chứng háu ăn|ăn vô độ]] (''binge eating disorder'', cũng ăn rất nhiều như người mắc bệnh ăn ói nhưng không có hành vi nôn mửa để làm sạch dạ dày). Ăn vô độ là một tình trạng mãn tính xuất hiện khi cá nhân ăn một lượng khổng lồ thức ăn trong khoảng thời gian ngắn và không có khả năng kiểm soát ngay cả việc ngừng ăn. Nó có thể gây ra các ảnh hưởng nghiêm trọng như dẫn tới bệnh béo phì, bệnh đái đường, chứng tăng huyết áp và bệnh tim mạch<ref>http://www.healthyminds.org/factsheets/LTF-EatingDisorders.pdf Let's Talk Facts About ''Eating Disorders''</ref>.
{{TOCright}}
 
Dòng 19:
Nhiều người nghĩ rằng rối loạn ăn uống chỉ xảy đến với phụ nữ da trắng trẻ tuổi, nhưng thực tế thì điều đó không hoàn toàn chính xác. Đúng là rối loạn ăn uống ảnh hưởng lớn đến phái nữ độ tuổi từ 12 đến 35, nhưng các nhóm khác cũng cho thấy nguy cơ đang tăng dần. Rối loạn ăn uống tác động đến tất cả các nước và chủng tộc, không một nhóm người nào được loại trừ<ref>http://womenshealth.gov/bodyimage/kids/bodywise/bp/AtRisk.pdf At Risk: All Ethnic and Cultural Groups</ref>. Thanh niên và thiếu niên theo các số liệu thống kê được cho là có nguy cơ cao mắc bệnh này.
 
Đối với trẻ mắc bệnh thì phần lớn rơi vào độ tuổi từ 11 đến 13, các nghiên cứu chỉ ra rằng 80% học sinh từ lớp 3 đến lớp 6 không hài lòng về [[ngoại hình]] và trọng lượng cơ thể và mới 9 tuổi nhưng đã có từ 30% đến 40% trẻ em gái sẵn sàng cho việc [[ăn kiêng]]. Giữa 10 và 16 tuổi con số này nhảy lên đến 80%<ref>http://www.empoweredparents.com/mini/t6.htm ''Fat Fears Create Stress in Young Children; Stress Levels Rise in Tweenies''</ref>. Nhiều chuyên gia về rối loạn ăn uống tin rằng hành vi này là kết quả từ những mong chờ về ngoại hình của nền [[văn hóa]]. Căng thẳng tâm lý cũng là nguyên nhân làm phát triển bệnh. Theo tác giả Abigail Natenshon một chuyên gia chữa bệnh rối loạn ăn uống bằng liệu pháp tâm lý (''psychotherapist'') thì ngay cả đứa trẻ 5 tuổi cũng cho thấy dấu hiệu căng thẳng liên quan đến rối loạn ăn uống. Natanshon cảnh báo rằng những đứa trẻ ở tuổi [[dậy thì]] và nhỏ hơn không được trang bị đầy đủ kiến thức để nhận biết những thay đổi của cơ thể chúng. Trẻ hiểu thông điệp từ truyền thông là gầy mới được coi là đẹp và cố để đạt được tiêu chuẩn đó mà không có những nhận thức đúng về tác động tiêu cực của các quan điểm đó<ref>http://www.healthyplace.com/Communities/eating_Disorders/children_1.asp When Very Young Kids Have Eating Disorders</ref>. Rối loạn ăn uống ảnh hưởng đến cả [[tuổi trẻ|thanh niên]] và [[thiếu niên]] không chỉ con gái mà cả con trai. Nam thanh, thiếu niên tham gia thể thao nơi mà trọng lượng là một vấn đề có khả năng cao mắc chứng bệnh này, các nam thanh niên có những vấn đề liên quan đến [[tình dục]] cũng vậy<ref>Jablow, Martha > ''A Parent's Guide to Eating Disorders and Obesity'' New York: Dell Publishing, 1992.</ref>.
 
== Phân loại ==
Dòng 30:
* Có nỗi sợ hãi lớn để lấy lại trọng lượng cơ thể bình thường hoặc trở lên béo và có mối bận tâm quá mức đến trọng lượng cơ thể và ngoại hình<ref name="dsm">{{chú thích sách|title = [[Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders]] DSM-IV-TR|year = 1994|edition = 4th|publisher = [[American Psychiatric Association]]|isbn = 0890420629}}</ref>
 
Phần lớn bệnh nhân mắc chứng chán ăn tâm thần rơi vào lứa tuổi thanh niên, báo cáo cho thấy 76% bắt đầu ở độ tuổi từ 11 đến 20<ref>{{chú thích web|accessdate = 2008-03-15|publisher = National Association of Anorexia Nervosa and Associated Eating Disorders|url = http://www.anad.org/22385/index.html |title=Facts About Eating Disorders}}</ref>. Tỉ lệ tử vong của chứng chán ăn tâm thần là xấp xỉ 6%, tỉ lệ cao nhất so với bất cứ loại bệnh tâm lý nào, với khoảng một nửa số [[chết|tử vong]] có nguyên nhân từ hành vi [[tự sát|tự tử]]<ref>{{chú thích|first1 = David B|last1 = Herzog|first2 = Dara N|last2 = Greenwood|first3 = David J|last3 = Dorer|first4 = Andrea T|last4 = Flores|first5 = Elizabeth R|last5 = Ekeblad|first6 = Ana|last6 = Richards|first7 = Mark A|last7 = Blais|first8 = Martin B|last8 = Keller|title = Mortality in eating disorders: A descriptive study|journal = International Journal of Eating Disorders|volume = 28|number = 1|pages = 20–26|year = 2000|doi = 10.1002/(SICI)1098-108X(200007)28:1<20::AID-EAT3>3.0.CO;2-X}}</ref>.
 
Người mắc chứng chán ăn thường là những [[người cầu toàn]] (''perfectionist''), luôn mong muốn thành công, tuy vậy họ thường đặt ra các tiêu chuẩn không thể đạt được cho bản thân mình. Khi họ không đạt được những tiêu chuẩn đó, họ tìm kiếm những cái mà họ cảm thấy mình điều khiển được và thức ăn, trọng lượng trở thành đối tượng bị điều khiển. [[Lòng tự trọng]] thấp cùng với sự tự phê bình cứng nhắc là nguyên nhân làm cho người mắc chứng chán ăn luôn luôn sợ hãi sự mất tự chủ, thậm chí chỉ cần ăn một lượng thức ăn nhỏ cũng làm cho họ cảm thấy mình bị mất tự chủ.
Dòng 63:
== Nguyên nhân ==
=== Môi trường ===
Phương tiện truyền thông gây ảnh hưởng quan trọng đến rối loạn ăn uống thông qua tác động của nó lên những giá trị, khuôn mẫu và tiêu chuẩn hình thể được chấp nhận bởi xã hội hiện đại<ref>{{chú thích|title = The relationship between media consumption and eating disorders|last1 = Harrison|first1 = K|last2 = Cantor|first2 = J|journal = Journal of Communication|volume = 47|number = 1|pages = 40–68|year = 1997|publisher = Oxford University Press|doi = 10.1111/j.1460-2466.1997.tb02692.x}}</ref>. Cả truyền hình đại chúng và bệnh rối loạn ăn uống đều phát triển mạnh trong thập niên gần đây. Các nhà nghiên cứu và thầy thuốc lâm sàng đều quan tâm đến mối quan hệ giữa hai hiện tượng này và đang tìm cách giảm bớt tác động tiêu cực của truyền thông lên nhận thức của phái nữ về hình thể. Ngành công nghiệp [[ăn kiêng]] kiếm được hàng triệu [[Đô la Mỹ|USD]] mỗi năm bởi hàng triệu người sử dụng nhằm đạt được cân nặng mong muốn. [[Hollywood]] thì bày ra trên phim ảnh những tiêu chuẩn phi thực tế về tiêu chuẩn của vẻ đẹp và điều này ảnh hưởng đến công chúng, nó làm họ không hài lòng với chính bản thân và cố gắng để đạt được những tiêu chuẩn bất khả về ngoại hình<ref>[http://www.bignews.biz/?id=2141&keys=rockstar-anorexia-girls-support Australian Idol Starlet: Shocking Anorexic Revelations<!-- Bot generated title -->]</ref>. Nó tác động mạnh đến lòng tự trọng và dễ dàng dẫn đến hành vi ăn kiêng, ăn uống thất thường, xấu hổ vì ngoại hình và cuối cùng là bệnh rối loạn ăn uống. Thực tế này gây tác hại lớn cho phụ nữ [[da màu]] và phụ nữ thiểu số khác, từ khi họ bị buộc phải sống trong một nền [[văn hóa]] mà có các quan điểm, nhận thức chật hẹp về cái đẹp: "''những người mà bị tác động mạnh bởi quan niệm về cái đẹp đặc biệt là phụ nữ da màu, có thể phải chịu đựng những tác động tâm lý như lòng tự trọng thấp, ý niệm về thân thể thấp và rối loạn ăn uống''"<ref name="Asian Eyes">{{chú thích|title = Asian Eyes: Body Image and Eating Disorders of Asian and Asian-American Women|last = Hall|first = C. I.|journal = Eating Disorders|volume = 3|number = 1|pages = 8–19|year = 1995|publisher = Taylor & Francis|doi = 10.1080/10640269508249141}}</ref>.
 
=== Nguyên nhân phát triển bệnh ===
Nghiên cứu từ các gia đình chỉ ra rằng rối loạn ăn uống bắt nguồn từ hai nguyên nhân đó là từ phía cha mẹ và vấn đề của các mối quan hệ. Khi cha mẹ có những phê phán quá mức và không tỏ sự thương yêu với những đứa con của mình thì chúng có xu hướng bộc lộ những hành vi [[tự hủy hoại bản thân]] (''self-destructive'') và tự chỉ trích mình gây ra khó khăn trong việc phát triển các kỹ năng tự chăm sóc. Khi sớm gặp thất bại trong việc phát triển các mối quan hệ với người khác, đặc biệt là mẹ mình sẽ làm giảm sự phát triển của các cảm xúc bên trong và dẫn đến tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào môi trường. Khi những giai đoạn cần thiết không được phát triển trong cái nôi gia đình thì thức ăn và [[dược phẩm|thuốc]] như là một sự khỏa lấp<ref>{{chú thích|last = Weiner|first = Sydell |title = The Addiction of Overeating: Self-Help Groups as Treatment Models |year = 1998 |volume = 54 |issue = 2 |pages = 163–167|journal = Journal of Clinical Psychology|issn=0021-9762 |doi = 10.1002/(SICI)1097-4679(199802)54:2<163::AID-JCLP5>3.0.CO;2-T}}</ref>.
 
=== Tổn thương ===
Dòng 74:
Người mắc bệnh [[rối loạn ám ảnh cưỡng chế]] nặng, [[trầm cảm]], ăn ói đều được tìm thấy có mức [[serotonin]] thấp một cách bất thường<ref name="long">{{chú thích web|last = Long|first = Phillip W|year = 1993|title = Eating Disorders|accessdate = 2006-03-03||publisher = National Institute of Mental Health|url = http://www.mentalhealth.com/book/p45-eat1.html}}</ref>. Các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, [[dopamin]] và [[norepinephrin]] được tiết ra bởi ruột và hệ thần kinh trung ương trong thời gian tiêu hóa<ref name="kalat">{{chú thích sách|last = Kalat|first = James W|year = 2006|title = Biological Psychology|edition = 8th|location = Houston|publisher = Wadsworth Publishing|isbn = 0495090794}}</ref>. Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy mức [[cholecystokinin]] thấp ở những người mắc chứng ăn ói. Cholecystokinin là một hooc môn có tác dụng gây no và giảm bớt ăn. Hooc môn này ở mức thấp là nguyên nhân cản trở cảm giác thỏa mãn khi ăn và dẫn đến tình trạng ăn quá nhiều. Các nghiên cứu khác tìm thấy nguyên nhân của hành vi ăn quá nhiều là sự bất thường trong những peptide điều biến thần kinh (''neuromodulator peptides''), neuropeptide Y và peptide YY. Cả hai [[peptide]] này gây ra thèm ăn và kết hợp với một peptide khác tên là [[leptin]]. Leptin được phóng thích bởi tế bào chất béo và có tác dụng giảm thèm ăn, phần lớn người mắc chứng ăn ói tiết ra một lượng bình thường leptin nhưng có thể chúng bị cản trở bởi bộ phận lọc máu của não (''blood-brain barrier'') khiến cho số lượng không đủ cần thiết để ức chế sự thèm ăn<ref name="kalat"/>.
 
[[Cortisol]] một hooc môn được tiết ra bởi vỏ tuyến thượng thận có tác dụng tăng đường huyết và trao đổi chất<ref name="kalat"/>, mức độ của hooc môn này tương đối cao ở người mắc rối loạn ăn uống. Sự không cân bằng này có thể là nguyên nhân gây ra vấn đề trong hoặc xung quanh vùng hạ đồi (vùng não điều khiển thân nhiệt, đói khát v.v)<ref>Long, Phillip W. (1993). Eating Disorders. Retrieved March 3, 2006, from the National Institute of Mental Health website: http://www.mentalhealth.com/book/p45-eat1.html</ref>. Một nghiên cứu tại bệnh viện Maudsley thuộc [[Luân Đôn|London]] tìm thấy ở người chán ăn tâm thần lượng serotonin cao (ngược với người mắc bệnh ăn ói) và sự biến đổi lớn ở các bộ phận cảm thụ serotonin<ref>Yager, Joel & Anderson, Arnold E. (2005). Anorexia Nervosa. The New England Journal of Medicine, 353 (14), 1481-1488, Retrieved March 3, 2006, from Ovid web: http://mutex.gmu.edu:2076/gw1/ovidweb.cgi</ref>. Những hóa chất và những hooc môn này liên quan đến vùng hạ đồi trong não. Tổn thương vùng hạ đồi có thể dẫn đến những bất thường trong việc điều chỉnh nhiệt độ, cách ăn uống, hành vi tình dục và sự nhanh nhẹn. Trong khi các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục tìm kiếm xem những hóa chất nào kiểm soát cảm giác đói, sự ngon miệng và quá trình tiêu hóa đã bị mất cân bằng, thì những chuyên gia như Dr. Edward J. Cumella, Giám đốc điều hành của chương trình Điều trị Remuda cho rằng có ba thành phần là nguyên nhân của bệnh:
# do [[gen|gien]]
# do các yếu tố môi trường riêng biệt, ví dụ như là các kinh nghiệm cá nhân
# do các yếu tố môi trường chung như là nền văn hóa
Dòng 108:
{{col-4}}
* [[Ám ảnh sợ xã hội]]
* [[Ăn|Ăn uống]]
* [[Tự cảm nhận ngoại hình cơ thể]]
* [[Rối loạn lo âu]]
Dòng 117:
 
'''Sách''':
* [http://www.mediafire.com/file/zmyjynyiywd/Canbangthantam.pdf Cân bằng thân – tâm] - tác giả [[Osho (Bhagwan Shree Rajneesh)|Osho]] {{vi}}
 
== Chú thích ==