Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Ông Bắc”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
'''Chùa Ông Bắc Long Xuyên''' tức '''Quảng Đông Tỉnh Hội quán'''<ref>Việc thờ tự trong chùa nhuốm màu sắc [[Đạo Lão]], nên gọi là quán thì đúng hơn</ref> tuy không to lớn, nhưng là một di tích kiến trúc chính thống của người Việt gốc [[Hoa]]. ▼
==Lịch sử==▼
[[Hình:ChuaongBac.jpg |nhỏ|phải|250px|Chùa Ông Bắc Long Xuyên]]
▲'''Chùa Ông Bắc Long Xuyên''', tức '''Quảng Đông Tỉnh Hội quán'''<ref>Việc thờ tự trong chùa nhuốm màu sắc [[Đạo Lão]], nên gọi là quán thì đúng hơn</ref>
Chùa Ông Bắc Long Xuyên được xây dựng cách đây trên trăm năm, khi vùng đất này còn mang tên [[Đông Xuyên]], sau đó thuộc thôn [[Mỹ Phước]], huyện [[Tây Xuyên]], phủ [[Tuy Kiên]], tỉnh An Giang thời Nhà Nguyễn <ref>Năm 1832 [[Minh Mạng]] đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh là[[ Phiên An]], [[Biên Hòa]], [[Định Tường]], [[Vĩnh Long]], An Giang và [[Hà Tiên]].▼
▲==Lịch sử==
▲Chùa Ông Bắc Long Xuyên được xây dựng cách đây trên trăm năm, khi vùng đất này còn mang tên [[Đông Xuyên]], sau đó thuộc thôn [[Mỹ Phước]], huyện [[Tây Xuyên]], phủ [[Tuy Kiên]], tỉnh An Giang thời
An Giang có 2 phủ: [[Tuy Biên]], [[Tân Thành]] và 4 huyện: [[Tây Xuyên]], [[Phong Phú]], [[Đông Xuyên]], [[Vĩnh An]].
Địa danh Long Xuyên ra đời từ năm 1870, sau khi Pháp đến chiếm thành An Giang trước đó 3 năm.
Trước khi Pháp đến tên Long Xuyên được dùng để chỉ xứ [[Cà Mau]] hiện nay</ref>.
Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lai lịch chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ do những người Hoa từ tỉnh [[Quảng Đông]] ([[Trung Quốc]]) đến lập nghiệp xây dựng để làm nơi hội họp, sinh hoạt.
Như hai câu đối tại cổng chính đã thể hiện rõ ý nghĩa này
:
:''Cư dân hàm lạc nghiệp kinh dinh đồng trụ dụ tài
Tạm dịch:
:
:
Đến năm Giáp Ngọ ([[1887]]), ông Quảng Thành Lợi và Hòa Mậu Xương là hai người Hoa giàu có trong vùng, đứng ra vận động đồng hương và người dân tín ngưỡng, đóng góp tiền của, khởi công sửa chữa lần thứ hai.
==Kiến trúc==
Qua 4 năm xây dựng, đến năm [[Mậu Tuất]] (1891) chùa được hoàn thành và trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và đáng tiêu biểu của
:Nội thất chùa có cấu trúc cảnh phong thủy, thoáng mát, trên đỉnh cao tứ giác có nhiều bức chạm trổ đẹp, hình tam cấp tượng trưng cho ba cõi: Thiên, địa, nhân.▼
▲
Nhìn chung, chùa đã thể hiện toàn cảnh một mô hình thu nhỏ của các ngôi nhà quan lại phong kiến Trung Hoa.
==Di vật==
Trong chùa có 3 khánh, một tủ thờ sơn son thiếp vàng, một chuông đồng, đỉnh đồng... Bên hông chùa còn ba bia đá ghi bằng [[chữ Hán]] kể lại lịch sử xây dựng chùa.
Người được thờ chính tại chính điện là [[Bắc Đế]]<ref>Bắc Đế: tức [[Bắc Du Chơn Võ]], hay còn được gọi
Tất cả tập họp thành một bản sắc văn hóa của người Hoa, đã hòa nhập lâu đời vào nền văn hóa Việt Nam.
Hàng năm, vào những ngày 3 tháng 3 âm lịch, 22 tháng 3 âm lịch và 21 tháng 6 âm lịch, trong bang hội và nhân dân quanh vùng đến dự lễ rất đông.
Chùa đã được công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia vào tháng 6 năm 1987.
==Chú thích==
<references/>
==Tham
[[Thể loại:Chùa An Giang|Ông Bắc]]
|