Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Nguyễn Huệ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: {{Infobox Military Conflict → {{Thông tin chiến tranh
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{dablink|Phân biệt với [[Chiến dịch Xuân - Hè 1972|Chiến dịch Xuân hè 1972]] được phía Mỹ gọi là "Eastern Offensive".}}
{{Thông tin chiến tranh
|conflict=Chiến dịch Nguyễn Huệ
|partof=[[Chiến tranh Việt Nam]]
|image= [[Tập tin:The A-37 light ground attack aircraft, a small but reliable tactical support aircraft, here dropping a 500-pound bomb..png|300px]]
|caption= Máy bay cường kích [[A-37 Dragonfly|A-37]] ném bom 500 pound trong chiến dịch Nguyễn Huệ - Eastern Offensive
|date=[[31 tháng 3]] năm [[1972]] - [[28 tháng 1]] năm [[1973]]
|place=[[Đông Bắc miền Đông Nam Bộ]]
|result=[[Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân đội nhân dân Việt Nam]] chiến thắng
|combatant1=[[Tập tin:Flag of Vietnam.svg|22px]] [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]]<br>[[Tập tin:FNL Flag.svg|22px]][[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân giải phóng miền Nam]]
|combatant2=[[Tập tin:Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực Việt Nam Cộng Hòa]]<br> [[Tập tin:Flag of the United States.svg|22px]] [[Không quân Hoa Kỳ]]
|commander1=Đại diện BTTM:[[Hoàng Văn Thái]]<br> Đại diện TW cục: [[Phạm Hùng]]<br> Tham mưu trưởng: [[Hoàng Cầm]]<br>tư lệnh chiến trường[[Trần Văn Trà]]<br>Chính ủy chiến trường[[Trần Độ]]<br>Phó chính ủy: [[Trần Văn Phác]]<br>Tham mưu trưởng chiến trường: [[Lê Ngọc Hiền]]<br>Chủ nhiệm hậu cần: [[Bùi Phùng]]<br>
|commander2=[[Lê Văn Hưng]]<br>[[Nguyễn Văn Minh]]<br>[[Hồ Trung Hậu]] và một số tướng lĩnh khác
|strength1=Các sư đoàn bộ binh: 5, 7, 9; các trung đoàn bộ binh 24, 71, 205; 429 [[biệt kích|đặc công]] (gồm 7 tiểu đoàn);<br> trung đoàn 201 thiết giáp (thiếu 1 tiểu đoàn) với 50 [[xe tăng]];<br> trung đoàn 208 pháo binh (tăng 1 tiểu đoàn); trung đoàn 75 cao xạ; 20 tiểu đoàn và 63 đại đội quân địa phương.
|strength2= '''VNCH:''' Các sư đoàn bộ binh 5, 18, 21, 25; trung đoàn bộ binh 15; các lữ đoàn dù 1 và 3; các liên đoàn biệt động quân: 3, 4, 5, 6, 7; các thiết đoàn 1, 5, 6, 9, 10, 15, 18 với 500 [[xe tăng]]-[[phương tiện chiến đấu bọc thép|xe thiết giáp]]; 4 tiểu đoàn pháo hỗn hợp 105m, 155 mm; <br> '''Hoa Kỳ:''' 197 box [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52]], 3.124 phi vụ máy bay cường kích, ném khoảng 50.000 tấn bom.
|casualties1=3961 chết, 13.412 bị thương<ref>Hồ sơ cục Quân y: Chiến dịch Nguyễn Huệ 4/1972 - 1/1973: 13.412 thương binh chiếm 26,83% quân số; trong đó đợt 1 là 6214 chiếm 12,42% quân số. Số tử vong hoả tuyến toàn chiến dịch được ghi nhận là 3961 chiếm 7,92% quân số</ref>
|casualties2=13.000 chết và bị thương, 5.381 bị bắt sống, 282 [[xe tăng]] và [[phương tiện chiến đấu bọc thép|xe thiết giáp]] và xe quân sự, 400 máy bay và trực thăng bị bắn rơi hoặc phá hủy. 45 khẩu pháo và 6.000 súng bị thu giữ<ref>Lịch sử Sư đoàn bộ binh 9 (1965-2010)</ref>
}}
{{campaignbox Vietnam War}}
'''Chiến dịch Nguyễn Huệ''' là chiến dịch quân sự do [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng Miền Nam]] (QGP) tiến hành năm 1972, trong [[Chiến tranh Việt Nam]], tại [[đông Nam Bộ (Việt Nam)|miền Đông Nam Bộ]]. Đây là một trong ba chiến dịch chính của [[Chiến dịch Xuân - Hè 1972|Chiến dịch Xuân Hè 1972]] chống lại Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH).
 
Chiến dịch được lấy tên [[Nguyễn Huệ]], vị hoàng đế nổi tiếng của Việt Nam vào thế kỉ 18.
Dòng 62:
Tuy nhiên, do không có kế hoạch chi tiết từ trước nên công tác chuẩn bị của QGP đã bị chậm trễ và gặp nhiều khó khăn. Đến ngày 13 tháng 4, [[trận An Lộc|cuộc tiến công vào An Lộc]] mới bắt đầu, nhưng thời cơ đã mất. Cho đến ngày hôm đó, QLVNCH đã kịp củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ tại An Lộc. Tướng [[Nguyễn Văn Minh]], chỉ huy quân đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã phái sư đoàn 5 tới giữ thị xã. Lực lượng này được tăng cường bởi 2 tiểu đoàn Biệt động quân (ngày 7 tháng 4) và 2 tiểu đoàn bộ binh (ngày 10 và 11 tháng 4).<ref>Ngô Quang Trưởng, ''The Easter offensive of 1972.'' Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1980. tr. 116.</ref> Sư đoàn 21 Bộ binh QLVNCH, trước đóng tại [[đồng bằng sông Cửu Long]], được gấp rút chuyển đến Chơn Thành để cùng với 1 trung đoàn của Sư đoàn 9 Bộ binh QLVNCH làm lực lượng giải cứu. Toàn bộ lực lượng trong vùng lên đến ba lữ đoàn tăng cường, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng [[Lê Văn Hưng]], sư đoàn trưởng sư đoàn 5. Ngày 9 tháng 4, cầu Cần Lê bị phá. Đồng thời, bắt đầu từ ngày 9 tháng 4, QLVNCH mở cuộc hành quân "Toàn thắng - 72B" nhằm giải toả sức ép của lực lượng QPG tại vòng vây quanh khu vực thị xã.
 
Ngày [[13 tháng 4]], An Lộc bị bao vây và chịu một cuộc tấn công hiệp đồng giữa pháo binh, thiết giáp và bộ binh của Sư đoàn 9 QGP. Bảo vệ quân phòng thủ là những trận mưa [[rốc két|rốc-két]], [[bom]], và [[napan|napalm]] từ các máy bay của Mỹ và Không lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thị xã, các cố vấn Mỹ trở nên đóng vai trò cốt tử cho việc chỉ huy lực lượng phòng thủ<ref>Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>, họ tổ chức hỏa lực và hỗ trợ từ không lực, hậu cần, và thông tin tình báo. Trong khi đó, sự do dự trong phản công và sự phụ thuộc vào hỏa lực không quân của tướng Hưng, chỉ huy của lực lượng phòng thủ đã làm cho thiếu tá William Miller, cố vấn cao cấp người Mỹ, nhận xét rằng: "Ông ấy mệt mỏi - không kiên định - phi lý - dễ cáu - không nghe lời khuyên - và không tiếp cận được<ref>"He is tired - unstable - irrational - irritable - inadvisable - and unapproachable." Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>
 
Các cuộc tấn công của QGP vẫn tiếp diễn và cuối cùng họ cũng vào được thị xã, chiến sân bay và thu hẹp vùng kiểm soát của QLVNCH xuống còn khoảng 1&nbsp;km<sup>2</sup>. Trong cuộc tấn công ngày 21, xe tăng QGP vượt qua được tuyến phòng thủ nhưng lại bị diệt bởi các súng bắn tăng và trực thăng trang bị súng. Cú sốc ban đầu mà xe tăng QGP gây ra cho lực lượng phòng thủ nhanh chóng trôi qua khi xe tăng không có bộ binh đi theo yểm trợ đã trở thành mục tiêu dễ dàng cho các loại súng chống tăng<ref>Ngô Quang Trưởng, tr. 119.</ref> Những đợt khác lại là lực lượng tấn công lớn bằng bộ binh mà không có tăng thiết giáp hỗ trợ. Sự thất bại trong hiệp đồng tác chiến này là một trong những điểm yếu của lực lượng tấn công, cái mà lực lượng phòng thủ nhanh chóng tận dụng. Tuy nhiên, bộ binh QGP cũng chiếm được gần hết khu vực phía Bắc của thị xã.
Dòng 76:
Từ [[22 tháng 4]] đến [[10 tháng 5]], chiến sự ổn định ở thế trận mà báo ''[[Paris Match]]'' ví với "một [[trận Verdun|Verdun]] hay một [[trận Stalingrad|Stalingrad]]".<ref>''Paris Match'', 5 tháng 7 năm 1972.</ref>
 
Sáng ngày 11 tháng 5, cuộc tiến công đợt hai vào thị xã An Lộc bắt đầu với một kế hoạch đã rút kinh nghiệm các đợt tiến công lần trước. Đến cuối ngày, địa bàn phòng thủ của QLVNCH rút xuống còn mỗi chiều khoảng 1&nbsp;km.<ref>Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995, tr. 472.</ref> Nhưng nỗ lực của họ lại thất bại trước hỏa lực dữ dội từ trên không, Hoa Kỳ ước tính Quân Giải phóng bị thương vong hơn 800 người.<ref>Momyer, General William W. ''The Vietnamese Air Force, 1951-1975, An Analysis of its Role in Combat''. Washington DC: Office of Air Force History, 1975, tr. 47.</ref> Trong suốt 25 tiếng đồng hồ bắt đầu từ 5:50 sáng, cứ 55 phút lại có một đợt máy bay [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52]] rải thảm để hỗ trợ quân phòng thủ.<ref>Fulgham, David, Terrence Maitland, et al. ''South Vietnam on Trial: Mid-1970-1972''. Boston: Boston Publishing Company, 1984, tr. 153.</ref> Trong 3 ngày sau, mỗi khi Quân Giải phóng tập trung lực lượng để tiếp tục tấn công, họ lại bị ném bom vào khu vực tập trung quân. Đỉnh cao của đợt tấn công là vào ngày 14 tháng 5, khi Quân Giải phóng đánh thẳng vào trung tâm phòng thủ của QLVNCH. Thiếu tá [[Walt Ulmer]], cố vấn của Sư đoàn 5 QLVNCH, miêu tả: "Họ cứ cố chất đống lên và chất đống lên. Họ đã lãng phí khủng khiếp là nhiều binh lực.<ref>"''they were simply trying to pile on and pile on and pile on. They frittered away an awful lot of manpower.''" Fulgham & Maitland, tr. 154.</ref> Ngày 15 tháng 5, đợt tấn công An Lộc lần thứ hai kết thúc thất bại.
 
Sư đoàn 21 QLVNCH đã được giao nhiệm vụ giải cứu, nhưng sư đoàn này không đến được An Lộc. Trong 3 tuần, sư đoàn này tiến chập chạp về phía Bắc dọc theo đường 13, nhưng bị kìm chân bởi lực lượng nhỏ hơn của Sư đoàn 7 Quân Giải phóng có nhiệm vụ chốt chặn con đường này.
Dòng 106:
Cuối tháng 7, khi thế trận giằng co kéo dài khó phát triển mà có thể dẫn đến bất lợi, Bộ tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ quyết định rút hai Trung đoàn 165 và 141 của [[Sư đoàn 7]] hợp cùng Trung đoàn 205 độc lập của Miền thành một sư đoàn đầy đủ, củng cố ngắn ngày, rồi bí mật rời Tân Khai - Đức Vinh xuống khu trung tuyến, tiến công vào cụm căn cứ QLVNCH ở phía sau như Chơn Thành, Lai Khê là những nơi đóng sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 25, quân đoàn 3 QLVNCH nhằm thu hút địch về hướng này, giảm sức ép của đối phương ở khu vực Tàu Ô, đồng thời hạn chế khả năng QLVNCH đưa lực lượng đánh ra vùng QGP vừa chiếm được. Đánh vào hậu cứ của cuộc hành quân giải toả này còn nhằm cài thế chiến dịch và có tác động cả về mặt tâm lý; khi có điều kiện, QGP còn có thể tiến sát vùng ven đô, vô hiệu hoá vùng trung tuyến, uy hiếp Sài Gòn. Trong thời gian chuyển quân, củng cố và chuẩn bị nổ súng đó, Trung đoàn 209 vẫn phải giữ vững trận địa tại Tàu Ô để nghi binh, giả như sau Trung đoàn 209 vẫn là các Trung đoàn 12, 14 của Sư đoàn 7 QGP, cho đến khi mặt trận trung tuyến nổ súng.
 
Đêm 10 rạng 11 tháng 8, tiểu đoàn 28 đặc công QGP phối hợp với một bộ phận của lữ đoàn 429 đặc công Miền, được trang bị [[súng cối]] và hoả tiễn 122 ly, tiến công sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 3 QLVNCH đặt tại Lai Khê mở màn trận chiến đấu ở vùng trung tuyến. Các đơn vị cơ động vào vị trí trên đoạn đường [[Bầu Bàng]] - [[Lai Khê]]. Hậu phương của cuộc hành quân giải tỏa bị đối phương đánh phá, QLVNCH điều Liên đoàn 6 Biệt động quân từ [[Biên Hòa|Biên Hoà]] lên ứng cứu Lai Khê và điều Liên đoàn 3 Biệt động quân Đường 2 sang Đường 13 bố trí ở [[Bến Cát]] làm dự bị phía sau. Trong khi đó, lực lượng cơ động của Sư đoàn 7 (Trung đoàn 12, 14) và Trung đoàn 205 do sư đoàn trưởng Sư đoàn 7 [[Đàm Văn Ngụy]] chỉ huy, triển khai vận động phục kích trên đường Chơn Thành đi Lai Khê, kết hợp với chốt cứng đoạn nam Bầu Lồng - bắc Bầu Bàng để đánh chặn lực lương QLVNCH từ phía bắc có thể quay về giải toả Lai Khê.
 
Tuy nhiên, QLVNCH vẫn đưa lực lượng phía sau lên ứng cứu, mà không rút lực lượng từ Tàu Ô về và tiếp tục duy trì áp lực tại đây. Bộ chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ quyết định đánh mạnh hơn nữa. Tiểu đoàn 35 (Liên đoàn 6 Biệt động quân) bị chặn đánh ở Bắc Lai Khê; Tiểu đoàn 51 bị diệt ở Tây-Nam Bầu Bàng (21 đến 22-8). Ngày 27 tháng 8, lực lượng còn lại của liên đoàn này phải luồn rừng rút về phía nam. Đến đây, sức ép của QGP vào Bình Dương và cùng ven đô Sài Gòn đang tới gần. Ngày 28 tháng 8, Nguyễn Văn Minh tư lệnh Quân đoàn 3 QLVNCH điện cho Lê Văn Tư, tư lệnh Sư đoàn 25 rằng "công trường 7" (chỉ sư đoàn 7 QGP) đang tiến mạnh, tiến sâu, lệnh cho sư đoàn 25 bỏ Tàu Ô lui về Chơn Thành, Lai Khê, bảo vệ vùng trung tuyến.
Dòng 115:
Từ thế trận tạo lập từ giai đoạn 2, cụ thể là thành công chốt chặn Tàu Ô, Sư đoàn 7 QGP tiến sâu xuống vùng trung tuyến, tiến công QLVNCH ở Bắc [[Bình Dương]] và [[Phú Hoà Đông]], [[Củ Chi]]; đánh bại cuộc hành quân của QLVNCH nhằm lấy lại vùng đất đã mất, tiêu diệt chiến đoàn 8 QLVNCH.
 
Ngày 19 tháng 1 năm 1973, mười tháng ròng của chiến dịch Nguyễn Huệ kết thúc, lập nên thế trận "da báo" ở [[đông Nam Bộ (Việt Nam)|miền Đông Nam Bộ]] trước khi [[Hiệp định Paris 1973|Hiệp định Paris]] được ký kết.
 
==Chú thích==