Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Tây Bắc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: {{Infobox Military Conflict → {{Thông tin chiến tranh
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 5:
|caption=
|date= [[14 tháng 10]] - [[10 tháng 12]], [[1952]].
|place=[[Liên bang Đông Dương|Đông Dương thuộc Pháp]], phần lớn tại Việt Nam
|territory=
|result= [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] chiến thắng, giải phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng
Dòng 14:
*[[Tập tin:Flag of South Vietnam.svg|25px]] [[Quốc gia Việt Nam]]
 
|combatant2=[[Tập tin:Flag of North Vietnam 1945-1955.svg|20px]] '''[[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Việt Nam Dân chủ Cộng hoà]]'''
*[[Tập tin:Flag of Viet Nam Peoples Army.svg|20px]] '''[[Quân đội Nhân dân Việt Nam]]'''
 
Dòng 30:
Tại Đông Dương, [[Raoul Salan]] lên làm Tổng tư lệnh. Trên chiến trường Việt Nam, thực dân Pháp chủ trương thực hiện chiến lược phòng ngự, ráo riết bình định các vùng tạm chiếm. Tổng chỉ huy Salan điện về chính quốc xin viện trợ về lực lượng và tài chính nhưng không được chấp nhận vì ngân sách đã cạn.
 
Sau khi mở các chiến dịch ở [[đồng bằng sông Hồng|đồng bằng Bắc Bộ]] năm 1951 không thành công, rút kinh nghiệm qua các chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam kể từ sau [[Chiến dịch Biên giới]], phân tích tình hình trên chiến trường, đánh giá khách quan hơn về tương quan lực lượng, [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Trung ương Đảng Lao động Việt Nam]] và [[Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã nhận định phương hướng chiến lược có lợi lúc này là chiến trường rừng núi.
 
Vì vậy, ngày 17 tháng 7 năm 1952, Trung ương Đảng quyết định thành lập khu Tây Bắc, gồm bốn tỉnh: [[Lai Châu]], [[Sơn La]], [[Lào Cai]], [[Yên Bái]], rộng 44.300 km2, dân số 440.000 người. Tây Bắc là một vùng rừng núi trùng điệp, nhiều dãy núi cao hơn 1000 mét. Đây là một vị trí chiến lược quan trọng đối với cách mạng ở Đông Dương. Tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương: ''"Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của dịch mà đánh và hướng tiến công chiến dịch lên Tây Bắc.”''<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), NXB: 2006, Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 3; NXB: Giáo dục.</ref>
Dòng 38:
==Lực lượng tham gia chiến dịch==
===Quân đội Nhân dân Việt Nam===
Gồm các [[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]], [[Sư đoàn 312, Quân đội Nhân dân Việt Nam|312]] và [[Sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|316]] (thiếu), Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148), 6 đại đội [[sơn pháo]] 75mm, 3 đại đội [[súng cối]] 120mm, 1 trung đoàn công binh và 11 đại đội bộ đội địa phương, do Bộ Tổng tư lệnh tổ chức, chỉ huy. Tổng quân số của hai hướng lên tới 36.000 người.
 
[[Võ Nguyên Giáp]] làm Tư lệnh chiến dịch, [[Hoàng Văn Thái]] làm Tham mưu trưởng, [[Nguyễn Chí Thanh]] làm Chủ nhiệm chính trị, [[Trần Đăng Ninh]] làm Chủ nhiệm cung cấp hậu cần.
Dòng 50:
Gồm 8 tiểu đoàn, trong đó có năm tiểu đoàn [[người Thái]] và ba tiểu đoàn cơ động người Phi, ngoài ra còn có 43 đại đội bộ binh Thái làm nhiệm vụ chiếm đóng, bố trí thành 144 cứ điểm thuộc bốn phân khu: [[Lai Châu]], [[Sông Đà]], [[Nghĩa Lộ]], [[Sơn La]] và 3 tiểu khu độc lập [[Thuận Châu]], [[Phù Yên]], [[Tuần Giáo]];
 
Trong quá trình chiến dịch, được tăng viện thêm 9 tiểu đoàn bộ binh và dù Âu-Phi, 3 tiểu đoàn ngụy Thái, 1 tiểu đoàn biệt kích hỗn hợp, 1 tiểu đoàn pháo binh gồm 11 khẩu [[pháo|đại bác]].
 
Công sự ở Nghĩa Lộ - Gia Hội, Cửa Nhì, Phong Thổ đã được cải tiến, có hầm ngầm, [[lô cốt]] xi-măng cốt thép. Còn các vị trí khác đều xây dựng theo kiểu cũ. Phần lớn, các vị trí đều đóng trên điểm cao, tiếp tế bằng máy bay, hàng ngày lính phải xuống chân núi lấy nước, vì vậy dễ bị bao vây khống chế. Việc tiếp tế và tiếp viện cho toàn khu và phân khu chủ yếu dựa vào không quân với khả năng tối đa 48 tấn một ngày và một tiểu đoàn dù. Việc tiếp tế giữa phân khu và cứ điểm chủ yếu bằng sức người và ngựa thồ.
Dòng 70:
Ngày 16 tháng 10, quân Pháp ở các vị trí Thượng Bằng La, Ba Khe và một loạt vị trí nhỏ xung quanh những cứ điểm bị diệt tự động bỏ đồn rút chạy. [[De Linarès]], Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Bộ, vội thả một [[tiểu đoàn dù]] do đại tá [[Marcel Bigeard]] chỉ huy xuống đồn [[Tu Lệ]], cách Gia hộì 10 cây số về phia tây tức là cách Nghĩa lộ 30 cây số. Tu Lệ là một đồn nhỏ có một tiểu đội lính Thái trấn giữ nằm trên ngã ba đường, một đàng xuống Nghĩa Lộ (đông nam), một đàng về [[Sơn La]] (tây nam), một đàng lên Thân Uyên, [[Quỳnh Nhai]] (Tây bắc).
 
Ngày 17, hai trung đoàn của [[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]], lợi dụng sương mù, từ 9 giờ sáng, đã có mặt trên những quả đồi đối diện với [[Pú Chạng]] (Nghĩa Lộ đồi), có khoảng 300 quân Pháp đồn trú. [[Trung đoàn 88]] chờ trời tối tiến vào vị trí Nghĩa Lộ Phố, ở cuối thị trấn do 400 lính chiếm giữ. [[Trung đoàn 36]] đã bao vây đồn Cửa Nhì. 14 giờ 30 phút, [[súng cối]] 120mm của QĐNDVN bắn vào trận địa pháo 105mm ở Nghĩa Lộ Phố, tạo điều kiện cho các mũi xung kích của tiểu đoàn 102 tiếp cận cứ điểm Pú Chạng.
 
Máy bay Pháp đến bắn phá, yểm trợ. Ba tốp máy bay [[Grumman F8F Bearcat|F8F Bearcat]] và một tốp [[Douglas A-26 Invader|B-26 Invader]] xuất hiện trên bầu trời, ném [[napan|bom napalm]] và bom phá vào đội hình xuất phát xung phong, làm 34 cán bộ, chiến sĩ bị thương, trong đó có Trung đoàn phó [[Nguyễn Hùng Sinh]]. Phòng không Việt Nam bắn rơi hai máy bay. Xung kích QĐNDVN mở cửa đột phá, đại đội chủ công 267 lọt vào đồn, thọc sâu chia cắt quân Pháp. Sau ba giờ chiến đấu, QĐNDVN làm chủ cứ điểm Pú Chạng, bắt 177 lính, trong đó có viên quan tư Ti-ri-ông chỉ huy phân khu. Trong lúc thu dọn chiến trường, máy bay Pháp lại ném bom xuống trận địa, Tiểu đoàn trưởng Vũ Phương hy sinh ngay dưới chân đồi.
 
Do chiếm lĩnh chậm, đến 3 giờ chiều ngày 17-10-1952, trung đoàn 88 mới tiến công Nghĩa Lộ Phố. tất cả hoả lực đại bác của [[sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|đại đoàn 308]] QĐNDVN đổ vào đồn Nghĩa Lộ, tiếp theo là bộ binh xung phong với [[súng không giật]] và mìn, băng-ga-lo phá hàng rào, phá tường đồn, sau cùng là các mũi xung kích tràn vào những lỗ hổng đã phá được, rồi những trận giáp lá cà bằng dao găm, lưỡi lê cho đến lúc đại đội Pháp và Thái trấn giữ, đồn thượng bị tiêu diệt hết. Đến nửa đêm, đồn hạ cũng bị tấn công theo chiến thuật đó. 9 giờ sáng ngày 18-10, QĐNDVN hoàn toàn chiếm được hai đồn bảo vệ Nghĩa Lộ, loại khỏi vòng chiến đấu 280 lính (diệt 45, bắt 235), thu 2 khẩu [[pháo|đại bác]] 105 ly và hàng nghìn viên đạn pháo.
 
Khi đó, Tổng chỉ huy Sa-lăng đang ở Sài Gòn vẫn từng giờ, từng phút chờ đợi De Linarès điện báo về, đêm 17-10 là ''“một đêm đầy lo âu, vì những tin tức hằng giờ bay vào Sài Gòn luôn mâu thuẫn nhau”''. Ngày 18-10, lo ngại của tướng Salan đã thành sự thật, De Linarès bay từ Tây Bắc về Hà Nội báo cáo: ''“Thế là hết”''. Nội dung ngắn gọn nhưng viên Tổng chỉ huy đã hiểu mọi điều. Thêm vào đó, [[Bernard Fall]] viết: ''“Từ trên máy bay, các phi công nhìn thấy rất rõ từng đoàn tù binh kéo đi, tay giơ quá đầu, lê bước giữa hai hàng lính Việt Minh”''.<ref>http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/211518/print/Default.aspx</ref>
Dòng 82:
Ở hướng phối hợp, phía nam Lai Châu, ngày 14 tháng 10, tiểu đoàn 910 [[trung đoàn 148]] đánh đại đội 5 của tiểu đoàn Thái, chiếm Quỳnh Nhai. Ngày 23, tiểu đoàn 542 trung đoàn 165 diệt một đại đội của tiểu đoàn Ta-bo 17 ở Pắc Ná, số còn lại chạy sang bên kia sông Đà.
 
Tới ngày 23, [[Sư đoàn 312, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 312]] có mặt trên sông Đà, chỉ sau 11 ngày đêm chiến đấu đã chiếm hữu ngạn sông Thao, tả ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, làm chủ đường 13 nối liền từ [[Yên Bái]] đến Nghĩa Lộ. Trước áp lực của Đại đoàn 312 ở hướng tây bắc, quân Pháp ở Gia Hội bỏ đồn rút về Tú Lệ, cùng với tiểu đoàn dù 6 chạy về phía sông Đà. Bộ chỉ huy chiến dịch điều trung đoàn 165 tiến công Tú Lệ và truy kích đến đèo Cao Phạ, diệt và bắt gần 400 lính.
 
Sau 10 ngày chiến đấu, QĐNDVN đã diệt 500 lính, bắt trên 1.000, giải phóng một vùng đất quan trọng từ hữu ngạn sông Hồng đến tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, rộng 10.000 km2. Ngày 23 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc đợt 1 và di chuyển sở chỉ huy từ Khe Lóng về Gia Phù, gần Tạ Khoa, trên vùng đất vừa giải phóng.
 
Pháp tăng viện cho Tây Bắc 8 tiểu đoàn mới là hai tiểu đoàn dù (6e BPC, 1e BEP), hai tiểu đoàn [[lê dương (định hướng)|lê dương]] (3/1 REI và 3/5 REI), hai tiểu đoàn Phi (31 RTM và 27 BMTS), hai tiểu đoàn [[Quốc gia Việt Nam]] (55e BVN và 58 BCL). Cộng với 8 tiểu đoàn còn lại, đưa quân số Pháp ở Tây Bắc lên 16 tiểu đoàn và 32 đại đội.
 
====Cuộc hành binh Lorraine====
Dòng 98:
 
===Đợt 2 (từ [[7 tháng 11|7]] đến [[22 tháng 11]])===
Các đơn vị QĐNDVN vượt Sông Đà, tiến công hệ thống phòng ngự của [[Pháp]] trên cao nguyên [[Mộc Châu]] (xem [[Trận Mộc Châu]], ngày [[19 tháng 11]] năm 1952), kết hợp vu hồi chiến dịch từ [[Quỳnh Nhai]], chiếm [[Thuận Châu]], [[Tuần Giáo]], [[Điện Biên Phủ]], buộc quân [[Pháp]] ở [[sơn La (thành phố)|thị xã Sơn La]] rút chạy về Nà Sản.
 
Ngày [[17 tháng 11]], QĐNDVN vượt [[sông Đà]], tiêu diệt vị trí [[Bản Hoa]]. Đêm tiếp theo tiêu diệt vị trí Ba Lay. Với hai trận đánh, Đại đoàn 312 tiêu diệt gọn tiểu đoàn 3 Marốc và một đại đội quân [[Quốc gia Việt Nam]]. Ngày [[18 tháng 12]] tiêu diệt vị trí [[Hát Tiêu]], [[Mường Lụm]]. Quân Pháp bỏ Tạ Khoa chạy về Cò Nòi. [[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]] truy kích, quyết sạch phòng tuyến quân Pháp trên bờ sông Đà. Ngày [[19 tháng 11|19]], đánh vào [[Mộc Châu]], chiếm các lô cốt trận địa pháo. Quân Pháp ở Chiềng Pan, sông Con, Tạ Khoa vội vã rút chạy. Đường số 6 được khai thông, cánh cửa vào Tây Bắc với QĐNDVN được mở rộng.
 
Ngày 18 tháng 11, quân Pháp rút khỏi Sơn La, [[trung đoàn 165]] tiếp quản Sơn La, truy quét bắt gần 500 lính và trên 100 nhân viên của [[Quốc gia Việt Nam]].
Dòng 106:
Trên hướng phối hợp, Ban chỉ huy mặt trận Y13 điều tiểu đoàn 910 và 542 bất ngờ tập kích [[Điện Biên Phủ]]. Quân Pháp chạy tan vào rừng, ta tổ chức lùng sục kết hợp với địch vận, bắt 726 lính, hầu hết thuộc tiểu đoàn Lào (58 BCL), thu 600 súng các loại.<ref>Mặt trận Y13 thành lập ngày 24 tháng 10 năm 1952, do Bằng Giang làm Tư lệnh. Mệnh lệnh số 33 (20 tháng 10). Tài liệu chỉ đạo chiến dịch. t.4, tr.342.</ref>
 
Tại [[Tu Lệ]], đại tá Bigeard được tin Nghĩa Lộ mất, nhận lệnh của [[Raoul Salan]] phải cùng với quân số tất cả các đồn xung quanh tức khắc rút lui về phía [[Nà Sản]], là một đồn ở trên đường tỉnh lộ số 41 từ [[Hòa Bình|Hoà Bình]] lên [[Lai Châu]] và cách [[Sơn La]] 10&nbsp;km về phía đông nam. Nà Sản có một sân bay lớn, máy bay Dakota có thể đáp xuống được. Ngày 21-10-52, sau một đêm cầm cự chống cuộc tấn công của QĐNDVN, Bigeard cùng các lính các đồn chung quanh tụ tập tại Tu Lệ, triệt thoái khỏi đồn. Một giờ trưa bắt đầu cuộc hàng trình trực chỉ hướng tây.
 
3 giờ sáng ngày 22-10-52, đoàn quân Bigeard tới đồn [[Mường Chèn]] là một đồn nhỏ ở giữa một lòng chảo cách Tu Lệ 25&nbsp;km, có một trung đội phụ lực [[người Thái]] dưới quyền thượng sĩ Peyrol trấn giữ. QĐNDVN suốt ngày đuổi theo đánh bọc hậu làm thiệt hại nhiều, nay vẫn bám sát và ẩn nấp trên những ngọn núi xung quanh. Lính của Bigeard đã kiệt sức, hết cả lương thực và đạn dược, phải dừng chân ở Muờng Chèn để nghỉ, lấy lại sức và chờ máy bay thả dù tiếp tế xuống. Nửa đêm hôm đó, nhờ đóng quân ở ngoài đồn và nhờ lúc QĐNDVN đánh đồn Mường Chèn, Bigeard vội chuyển quân đi thoát.
Dòng 116:
Sau khi thất bại ở Nghĩa Lộ, Salan quyết định tăng cường Nà Sản để chống trả với Việt Minh trong vùng tây bắc và cũng để bảo vệ lãnh thổ [[người Thái]] từ lâu đã có những liên lạc trung thành với Pháp mà Pháp không muốn rời bỏ.
 
Nà Sản là tên một làng Thái ở giữa một thung lũng dài 5&nbsp;km, rộng 2&nbsp;km, xung quanh có núi đồi cao bao bọc, cách Hà nội 190 cây số theo đường thẳng, và cách khoảng 40 phút bằng máy bay. Dân cư thưa thớt, toàn người Thái sống về nghề làm rẫy. Giữa lòng chảo có một phi đạo dài một l km dùng cho máy bay hai động cơ Dakota lên xuống được. Nà Sản cũng nằm trên tỉnh lộ số 41 nối liền [[Lai Châu]], [[Điện Biên]] qua [[Sơn La]], [[Mộc Châu]] xuống [[Thanh Hóa]] hoặc sang [[Hòa Bình|Hoà Bình]] về Hà Nội, vì vậy vị trí Nà Sản quan trọng trong việc tiếp tế bằng đường bộ cho khu vực Thái và trấn giữ vùng [[Thượng Lào]].
 
Đầu tháng 11-1952, một cầu không vận ngày đêm hoạt động, chuyên chở các đồ tiếp tế: đạn dược, lương thực, xe ủi đất, hàng ngàn tấn [[dây kẽm gai]] và lừa ngựa từ Hà Nội lên Nà Sản (lừa ngựa để chuyên chở nước uống và tiếp tế lương thực đạn dược cho các đồn điểm tựa đóng trên núi). Hai đại đội [[công binh]] và hàng ngàn phu phen phục dịch gấp rút xây đắp các đường hầm giao thông và trú ẩn, xây cất 30 điểm tựa xung quanh lòng chảo, trên những ngọn đồi núi, để bảo vệ phi trường Nà Sản. Đại tá Gilles chỉ huy 8 [[tiểu đoàn]] và 4 khẩu trọng pháo 105 ly, có nhiệm vụ bảo vệ Nà Sản.
Dòng 122:
QĐNDVN tiếp tục tiến công quân [[Pháp]] ở Nà Sản. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định triển khai đợt 3, Nà Sản là mục tiêu, nhưng quân Pháp thả dù thêm cho Nà Sản 2 tiểu đoàn. Cứ điểm này trở thành một cứ điểm kiên cố nằm trong cấu trúc chặt chẽ của một tập đoàn cứ điểm.
 
Đêm 30-11 rạng ngày 31-11-1952, QĐNDVN ồ ạt tấn công vào các điểm tựa phía đông bắc. [[Trung đoàn 102]] cùng [[trung đoàn 88]] của [[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]] tiến công Pú Hồng (điểm cao 753). Sau 1 giờ 45 phút chiến đấu, QĐNDVN chiếm được điểm tựa số 24 do trung úy Pipart phụ trách với một đại đội lính Thái và lính [[Maroc|Ma rốc]], diệt bốn trung đội của GM1 đóng tại đây, bắt sống viên quan ba chỉ huy. Cùng đêm, tiểu đoàn 115 của trung đoàn 165 Đại đoàn 312 tiến công vị trí Bản Hời. Sau hơn một giờ chiến đấu, QĐNDVN diệt một đại đội địch. Tới gần sáng, nhờ trọng pháo và [[không quân]] yểm trợ, Gilles phản công với những đơn vị dự trữ, QĐNDVN rút lui, Gilles lấy lại được đồn.
 
Đêm hôm sau, 11 tiểu đoàn QĐNDVN ồ ạt tấn công vào hai đồn chính bảo vệ Nà Sản. Từ 9 giờ đêm đến 7 giờ sáng, nhờ thời tiết tốt nên máy bay Pháp thả pháo sáng khắp trận địa, liên tiếp ném bom và bắn pháo liên thanh xuống vị trí QĐNDVN, đồng thời các giàn [[pháo|đại bác]] nhả đạn xung quanh đồn, ở trong đồn thì lính cố sức cầm cự, QĐNDVN thiệt hại nhiều mà không chiếm được đồn. Trung đoàn 209 đánh Bản Vây cũng không kết quả. Trời sáng, Pháp dùng máy bay oanh tạc và bắn trên 5.000 quả đạn pháo để cứu nguy cho các cứ điểm. Đến sáng, QĐNDVN rút lui.
 
Ngày 2 tháng 12, địch thả dù tăng cường thêm cho Nà Sản hai tiểu đoàn, quyết giữ tập đoàn cứ điểm này. Những ngày sau, QĐNDVN biết là vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ, nếu tiếp tục tấn công thì bất lợi. Trước những khó khăn mới nảy sinh, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Tây Bắc, QĐNDVN rút lui khỏi Nà Sản không trở lại nữa.
Dòng 131:
Trong khi [[Raoul Salan]] tăng cường phòng thủ Nà Sản đề phòng QĐNDVN kéo quân tới tấn công địa điểm đó, thì đêm hôm 17-11, [[Mộc Châu]] bị thất thủ.
 
Mộc Châu là một thị trấn ở cách Nà Sản 80&nbsp;km về phía Nam, nằm trên đường hàng tỉnh số 41 từ Hoà Bình lên Sơn La, Lai Châu, trấn giữ con đường qua [[Xiengkhuang|Xiêng Khoảng]] xâm nhập xứ Lào. Mộc Châu có một tiểu đoàn [[Maroc|Ma rốc]] với quân phụ lực [[người Thái]]. Đêm 17 rạng ngày 18-11, đồn Mộc châu bị chiếm sau nhiều đợt tấn công của QĐNDVN, quân Pháp bỏ đồn rút qua rừng về phía [[Xamneua|Sầm Nưa]].
 
Ngày 30-11-1952, đồn [[Điện Biên Phủ]] cũng bị thất thủ. Điện Biên Phủ là một thị trấn thuộc Quân khu 4 mà Bộ chỉ huy đóng ở [[Lai Châu]], nằm gần biên giới Lào cách Lai Châu độ 90&nbsp;km đường thẳng về phía tây nam và cách [[Sơn La]] cũng chừng ấy về phía tây, cách Hà Nội khoảng 300&nbsp;km. Điện Biên Phủ nằm giữa một thung lũng lòng chảo dài 15&nbsp;km, rộng 6&nbsp;km, có một phi đạo máy bay Dakota có thể lên xuống được. Điện
 
Biên Phủ có chừng 300 lính Thái đặt dưới quyền một viên tri châu [[người Mường]], [[Đèo Văn Ban]], và một tiểu đoàn lính [[Sénégal|Senegal]] dưới quyền thiếu tá Durand. Tiểu đoàn Sê-nê-gan này vừa bị tiêu diệt trong một cuộc chạm súng với QĐNDVN gần Lai châu.
 
Ngày 25-11, tiểu đoàn Lào do thiếu tá Sicard chỉ huy được gửi đến tăng cường. Ngày 29, QĐNDVN tấn công, tiểu đoàn Lào và lính Thái bỏ chạy về phía [[Mường Khoa]] (Lào), Điện Biên Phủ bị QĐNDVN chiếm trọn.
 
Đứng trước hai thất bại, Mộc Châu và Điện Biên Phủ, bộ Chỉ huy Pháp lo ngại QĐNDVN tấn công vào [[Lào]], một mặt mở những cuộc hành quân phát xuất từ Nà Sản để đánh phá QĐNDVN trong việc tiếp tế và tập kích hậu quân của QĐNDVN, một mặt tăng cường [[Xamneua|Sầm Nưa]] là một thị trấn Lào gần Mộc châu và Điện Biên Phủ nhất. Mặt khác vì nhu cầu nhân sự, bộ chỉ huy Pháp giao nhiều trách nhiệm cho [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] trong vùng đồng bằng, mở các cuộc hành quân vào căn cứ Việt Minh trong vùng [[Quy Nhơn]] để bớt áp lực cho [[Pleiku]] và tổ chức các đoàn [[biệt kích]] [[h'Mông|người Mèo]] để phá rối QĐNDVN trong vùng Thượng Lào.
 
==Kết quả==
[[Bernard Fall]] đã viết về tình hình chiến dịch như sau: ''“Các sư đoàn Việt Minh ngay trước mắt người Pháp đang làm chủ trên không, đã vượt quá 180 dặm trong 6 tuần liền mà chẳng phải dùng đến môt con đường bay một xe cơ giới nào... Đến ngày [[10 tháng 12]], người Pháp mới rút lui tương đối an toàn về sau [[Phòng tuyến Tassigny]] ở phía bắc [[Hà Nội]] nhưng cũng phải thiệt hại khá nặng về cả người và trang bị"''.
 
Ngày [[10 tháng 12]] năm 1952, Hội nghị sơ kết chiến dịch phía [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] nhận định: ''“Chiến dịch Thu Đông 1952 đã thành công vượt mức dự kiến.”''<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp, NXB: 2006, Tổng tập Hồi kí; NXB: Quân đội nhân dân (Hữu Mai thể hiện).</ref> Hướng Tây Bắc, QĐNDVN đã tiêu diệt và bắt 6.029 quân Pháp và chư hầu; ngoài ra còn thu được thắng lợi quan trọng ở [[Phú Thọ]], tiêu diệt 1.711, bắt 173. Toàn chiến dịch, QĐNDVN đã xóa bỏ và chiếm 85 vị trí, thu 3.785 súng các loại, 90 máy vô tuyến điện, 1459 dù, mở rộng kiểm soát thêm 28.000 km2 với 250.000 dân trong đó có [[sơn La (thành phố)|thị xã Sơn La]] và toàn tỉnh [[Sơn La]] (trừ Nà Sản). Ở đồng bằng [[Liên khu 3]], tiêu diệt 12 vị trí cỡ đại đội, diệt 4.031 quân Pháp và chư hầu, bắt 1.746, mở rộng nhiều khu căn cứ ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng, nối liền vùng kiểm soát Tây Bắc với căn cứ địa [[Việt Bắc]] và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của Pháp.
 
Tuy còn những hạn chế, nhưng chiến dịch này vẫn giành được thắng lợi lớn. Vì vậy, ngày 29 tháng 1 năm 1953, trong hội nghị tổng kết Chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] khen ngợi: ''“Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác bằng lòng các chú, lần này chưa phải hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước”''<ref>Hồ sơ 579, trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.</ref>