Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thụy hiệu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 21 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q696100 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Thuỵ hiệu''' ([[tiếng Trung Quốc|tiếng Hán]]: 諡號) hay '''hiệu bụt''' hoặc '''tên hèm''' trong văn hóa [[Đông Á|Á Đông]] là tên được đặt cho những người quá cố, thường là vua chúa, nhưng cũng có một số người khác, như trong Phật giáo. Thụy hiệu, cùng với [[miếu hiệu]] và [[niên hiệu]] là một trong những cách để gọi tên vua trong các nước [[Trung Quốc]], [[Triều Tiên]], [[Nhật Bản]], và [[Việt Nam]].
 
== Ý nghĩa ==
Lê Văn Hưu lý giải điều này, được các sử gia đời [[Nhà Lê sơ|Hậu Lê]] ghi lại trong [[Đại Việt sử ký toàn thư]]:
:''Thiên tử và hoàng hậu khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành hoàng đế. Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh hay hay dở để đặt thụy là '''mỗ hoàng đế''', '''mỗ hoàng hậu''', không gọi là Đại Hành nữa''
 
Dòng 564:
Bắt đầu được sử dụng từ [[nhà Chu]], thụy hiệu có lịch sử 800 năm lâu dài hơn miếu hiệu. Thời [[Tam Hoàng Ngũ Đế]] đến [[nhà Hạ]], [[nhà Thương]] chưa có phép đặt thụy hiệu. Vì thụy hiệu được đặt cho những người quá cố, nó thường được đặt bởi người kế vị của người chết. Phép đặt thụy hiệu thường do người sau ''căn cứ vào hành trạng'' của người trước để đặt cho một hay nhiều chữ phù hợp.
 
Một số vua chúa không có thụy hiệu, có thể vì người kế vị không chịu hay chưa có cơ hội đặt tên. Các vua có nhiều võ công thường được đặt thụy là Vũ Đế ([[Hán Vũ Đế]], [[Tấn Vũ Đế]]...), Vũ Vương ([[Chu Vũ vương|Chu Vũ Vương]], [[Sở Vũ vương|Sở Vũ Vương]]), Vũ Công ([[Tấn Vũ công|Tấn Vũ Công]], [[Trịnh Vũ công|Trịnh Vũ Công]])...; các vua nổi về giáo hóa được tôn là Văn Đế ([[Tùy Văn Đế]], [[Hán Văn Đế]]), Văn Vương ([[Cơ Xương|Chu Văn Vương]], [[Sở Văn vương|Sở Văn Vương]]), Văn Công ([[Trịnh Văn công|Trịnh Văn Công]], [[Tống Văn công|Tống Văn Công]]...). Vua độc ác thường được gọi là Lệ Vương, Lệ Công ([[Chu Lệ vương|Chu Lệ Vương]], Mẫn Lệ công - thụy hiệu của ''vua quỷ'' [[Lê Uy Mục]] khi mới mất, sau này [[Lê Chiêu Tông]] đổi là Uy Mục); vua ngu tối thì đặt thụy là U vương, U công ([[Chu U vương|Chu U Vương]], [[Trần U công|Trần U Công]]...)
 
Thời Chu, các vua chúa thường có thụy hiệu ngắn 1-2 chữ, như Thành Vương, Uy Vương, Tuyên Huệ công, Hoàn Huệ Vương... Nhưng từ thời [[nhà Hán]], các thụy hiệu được đặt dài với nhiều chữ và do đó người sau khó nhớ hơn. [[Đường Cao Tổ]] Lý Uyên được tôn thụy hiệu là ''Thần Nghiêu Đại Thánh Đại Quang Hiếu hoàng đế'', [[Trần Thái Tông]] được tôn thụy hiệu là T''hống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công Hựu Thuận Thánh Văn Thần Vũ Nguyên Hiếu hoàng đế'',...
 
Ở [[Nhật Bản]] từ [[thời kỳ Minh Trị]], vua chỉ đặt một niên hiệu, sau khi qua đời niên hiệu này cũng trở thành thụy hiệu của ông. Chẳng như vua Mutsuhito, đặt niên hiệu là Minh Trị, sau khi qua đời năm [[1912]] ông được tôn thụy hiệu là ''[[Thiên hoàng Minh Trị|Minh Trị Thiên hoàng]]''.
=== Các trường hợp đặc biệt ===
Dòng 575:
Một số trường hợp được đặt tên thụy bằng Mạt Đế, nghĩa là hoàng đế cuối cùng, như [[Hậu Lương Mạt Đế]] Chu Hữu Trinh, Đông Ngô Mạt Đế [[Tôn Hạo]]. Một số trường hợp "nhường ngôi" trong hòa bình (thực chất là ép nhường), các vua cuối cùng vẫn có thụy hiệu như [[Hán Hiến Đế]] (Lưu Hiệp), [[Tào Ngụy Nguyên Đế]] (Tào Hoán), Đông Tấn Cung Đế, [[Lý Chiêu Hoàng]], [[Lê Cung Hoàng]]...
 
Trường hợp [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]] ở Việt Nam không có thụy hiệu. Tên gọi Lê Đại Hành ngày nay của ông không phải thụy hiệu và cũng không phải là miếu hiệu. [[Lê Văn Hưu]] lý giải:
:''Thiên tử... khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành hoàng đế (nghĩa là vua sắp đi xa). Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh để đặt thụy là mỗ hoàng đế..., không gọi là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà truyền đến ngày nay là làm sao? Vì Ngọa Triều là con bất tiếu, lại không có bề tôi Nho học để giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế.''
 
=== Không dùng thụy hiệu ===
Triều đại không dùng thụy hiệu, ngay cả khi phép đặt thụy đã tồn tại, là [[nhà Tần]]. Theo [[Sử Ký (định hướng)|Sử ký]], [[Tần Thủy Hoàng]] cho rằng phép đặt hiệu bụt của nhà Chu là ''"con bàn bạc về cha, bề tôi bàn luận về vua, thật là vô nghĩa"''. Do đó vua Tần bỏ phép đặt hiệu bụt mà tính theo số: từ Thủy Hoàng tới Nhị Thế, Tam Thế... tới Vạn Thế.
 
== Trong Phật giáo ==