Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triệu (nước)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 18 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q197430 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 47:
|stat_pop1 =
}}
'''Triệu''' ([[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: Zhào, [[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]] phồn thể: 趙, giản thể: 赵) là một quốc gia có chủ quyền trong thời [[Chiến Quốc]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Triệu là nước có vai trò đáng kể trong giai đoạn này, cùng với 6 quốc gia hùng mạnh khác lập ra cục diện ''Thất hùng''.
 
Vào đầu thời kỳ Chiến Quốc, nước Triệu là một trong những quốc gia yếu nhất nhưng đã đạt được sức mạnh đáng nể trong thời kỳ trị vì của [[Triệu Vũ Linh vương]]. Vào cuối thời kỳ Chiến Quốc, Triệu là nước duy nhất đủ hùng mạnh để chống lại cường quốc khi đó là [[Tần (nước)|Tần]].
Dòng 55:
 
== Nổi lên ==
Thời kỳ [[Tấn Văn hầu]], Thúc Đới di cư tới nước Tấn. Cháu 5 đời của Thúc Đới là Triệu Túc lập công lớn được Tấn Hiến Công thưởng cho đất Cảnh, Triệu Túc sinh Cộng Mạnh, Cộng Mạnh sinh Triệu Thôi. Năm 656 TCN, Triệu Thôi từng theo công tử [[Tấn Văn công|Trùng Nhĩ]] lưu vong ra khỏi Tấn. Sau này Trùng Nhĩ trở thành [[Tấn Văn công]] của Tấn thì Triệu Thôi trở thành trọng thần. Con cháu Triệu Thuẫn các đời đều nắm trọng quyền, dần phát triển thế lực của gia tộc họ Triệu thành một trong [[Lục khanh]]. Thời [[Tấn Cảnh công]], họ Triệu suýt bị diệt tộc nhưng may mắn đã được phục hồi địa vị.
 
Tới thời [[Tấn Xuất công]] thì quyền lực thực tế nằm trong tay các trọng thần như [[Trí Bá]], [[Triệu Vô Tuất|Triệu Tương tử]], [[Hàn Khang tử]] và [[Ngụy Câu|Ngụy Hoàn tử]]. Sử gọi là [[Tứ khanh]]. Năm 456 TCN, Tứ khanh đuổi Tấn Xuất công đi để lập Cơ Kiêu, tức Tấn Ai công. Năm 454 TCN, Trí Bá hợp cùng hai nhà Hàn, Ngụy tấn công Tấn Dương (nay ở phía nam quận [[Tấn Nguyên]], địa cấp thị [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]], tỉnh [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]]). Triệu Tương tử giữ vững thành trì. Sau đó liên hợp với chính hai nhà Hàn, Ngụy diệt Trí Bá. Năm 453 TCN, ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy chia nhau vùng đất của họ Trí.
 
Năm 437 TCN, Tấn Ai công chết. Con là Cơ Liễu ([[Tấn U công]]) kế nghiệp. Nước Tấn khi đó thực chất đã bị phân chia giữa 3 thế gia là Hàn, Triệu và Ngụy. U công không có quyền lực gì đối với 3 nhà này.
Dòng 66:
 
== Lãnh thổ ==
Lãnh thổ của nước Triệu bao gồm các khu vực ngày nay thuộc [[Nội Mông|Nội Mông Cổ]], nam [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], trung [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]] và đông bắc [[Thiểm Tây]].
 
Nước Triệu có biên giới với các bộ lạc [[Hung Nô]] (như [[Lâm Hồ]], [[Lâu Phiền]], [[Đông Hồ (định hướng)|Đông Hồ]]) ở phía bắc, các nước như [[Tần (nước)|Tần]] ở phía tây, [[Ngụy (nước)|Ngụy]] ở phía nam, [[Yên (nước)|Yên]] ở đông bắc, [[Tề (nước)|Tề]] ở phía đông. Cận kề còn có tiểu quốc [[Trung Sơn (nước)|Trung Sơn]].
 
Kinh đô của nước Triệu đặt tại Hàm Đan (邯郸), ngày nay thuộc vùng ven đô của thành phố [[Hàm Đan]], tỉnh [[Hà Bắc, (Trung Quốc)|Hà Bắc]].
 
== Phát triển ==
Dòng 88:
Năm [[229 TCN]], cuộc xâm lăng của quân Tần do tướng [[Vương Tiễn]] đã bị quân đội Triệu do Lý Mục và [[Tư Mã Thượng]] (司馬尚) chỉ huy kìm chân tại chỗ tới tận năm [[228 TCN]]. Theo ghi chép của một số nguồn thì do Tần sử dụng kế phản gián nên [[Triệu U Mục vương]] đã nghi ngờ và ra lệnh xử tử Lý Mục, bãi nhiệm Tư Mã Thượng. Năm 228 TCN, quân Tần tiến vào Hàm Đan, bắt sống U Mục vương và chiếm nước Triệu. Hoàng tử Triệu Gia, anh cùng cha khác mẹ của U Mục vương, đã chạy tới Đại Thành tự xưng vương và chỉ huy các lực lượng còn lại của Triệu chống Tần. Chính quyền này kéo dài tới năm [[222 TCN]] thì quân Tần bắt được Đại vương Gia và xóa sổ nước Triệu.
 
Hơn 10 năm sau, các [[chư hầu]] nổi dậy chống nhà Tần, một người dòng dõi nước Triệu là [[Triệu Yết]] được lập làm Triệu vương để khôi phục nước Triệu, nhưng cuối cùng bị Hán vương [[Hán Cao Tổ|Lưu Bang]] thôn tính vào năm 204 TCN.
 
== Các vị quân chủ ==
Từ thời [[Xuân Thu]], dòng họ Triệu phục vụ cho [[tấn (nước)|nước Tấn]] đã được ban tước ''tử''. Từ khi được [[Chu Uy Liệt Vương]] phong chư hầu thì thăng lên tước hầu, đến đời thứ 6 thì xưng vương.
 
=== Thủ lĩnh họ Triệu ===
* [[Triệu Thôi|Triệu Thành tử]] Triệu Thôi (?-[[622 TCN]]). con là Triệu Thuẫn
* [[Triệu Thuẫn|Triệu Tuyên tử]] Triệu Thuẫn ([[621 TCN]]-[[601 TCN]]), con của Triệu Thôi. Các em là [[Triệu Đồng]], [[Triệu Quát (Xuân Thu)|Triệu Quát]]
* [[Triệu Sóc|Triệu Trang tử]] Triệu Sóc ([[601 TCN]]-[[597 TCN]]). Con của Triệu Thuẫn, vợ là chị gái [[Tấn Thành công]].
* [[Triệu Vũ|Triệu Văn tử]] Triệu Vũ (?-[[541 TCN]]). Con của Triệu Sóc
* [[Triệu Cảnh tử]] Triệu Thành/Triệu Cảnh Thúc ([[540 TCN]]-[[518 TCN]]). Con của Triệu Vũ.
* [[Triệu Ưởng|Triệu Giản tử]] Triệu Ưởng ([[517 TCN]]-[[476 TCN]]). Con của Triệu Thành.
* [[Triệu Vô Tuất|Triệu Tương tử]] Triệu Vô Tuất ([[475 TCN]]-[[425 TCN]]). Con của Triệu Ưởng.
* [[Triệu Gia|Triệu Hoàn tử]] Triệu Gia ([[424 TCN]]-[[424 TCN]]). Con của Triệu Vô Tuất.
* [[Triệu Hiến hầu|Triệu Hiến tử]] Triệu Hoán ([[423 TCN]]-[[409 TCN]]). Cháu Triệu Gia (Ưởng sinh Triệu bá Lỗ và Vô Tuất. Lỗ sinh Chu, Chu sinh Hoán).
 
Dòng 138:
* [[Hàn (nước)]]
* [[Ngụy (nước)]]
* Các vương quốc [[Hán Triệu|Tiền Triệu]] và [[Hậu Triệu]] trong thời kỳ [[Ngũ Hồ thập lục quốc|Thập lục quốc]]
{{Chiến Quốc}}
{{Vua nước Triệu}}