Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tân Ước”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 120 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q18813 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{Kitô giáo}}
 
'''Tân Ước''', còn gọi là '''Tân Ước Hi văn''' hoặc '''Kinh thánh Hi văn''', là phần cuối của Kinh Thánh [[Kitô giáo]], được viết bằng tiếng Hi Lạp bởi nhiều tác giả vô danh trong khoảng từ sau năm 45 sau công nguyên tới trước năm 140 sau công nguyên (sau [[Cựu Ước]]). Từ này được dịch từ [[latinh|tiếng Latinh]] ''Novum Testamentum'', nguyên ngữ Hi văn ''Kainē Diathēkē'' (Καινή Διαθήκη), nghĩa là "Giao ước mới". Thuật ngữ "Tân Ước" lúc đầu được [[Kitô hữu]] dùng để miêu tả mối tương giao giữa họ và [[Thiên Chúa]], về sau được dùng để chỉ một tuyển tập gồm 27 sách.
 
== Nguồn ==
Theo các giáo phụ, [[Phúc Âm Matthew|Phúc âm Matthew]] và [[Phúc Âm John|Phúc âm John]] là những sách được trước tác đầu tiên, song nhiều người tin rằng [[Phúc Âm Mark|Phúc âm Mark]] và "Nguồn Q" là những nguồn tư liệu chính cho các sách Phúc âm.
 
== Các sách của Tân Ước ==
Dòng 11:
=== Các sách Phúc âm ===
{{Các sách Tân Ước}}
Trọng tâm của các sách Phúc âm là cuộc đời, sự chết và sự phục sinh của [[Giê-su|Chúa Giê-su]]:
 
* [[Phúc Âm Matthew|Phúc âm Matthew]]* – Matthew (''Mátthêu'' hoặc ''Ma-thi-ơ''), người thu thuế trở nên sứ đồ.
* [[Phúc Âm Mark|Phúc âm Mark]]* – Mark (''Máccô'' hoặc ''Mác''), môn đệ của Phê-rô và của Phao-lô.
* [[Phúc Âm Luca|Phúc âm Luca]]* – Luca, có lẽ là môn đệ của Phao-lô.
* [[Phúc Âm John|Phúc âm John]] – John (''Gioan'' hoặc ''Giăng''), ngư dân trở nên sứ đồ.
:<nowiki>*</nowiki> Gọi là nhóm ''[[Phúc Âm Nhất Lãm|Phúc âm Nhất lãm]] (Phúc âm Đồng quan)''
=== Sách Lịch sử ===
Lịch sử hội thánh tiên khởi, sau khi Chúa Giê-su không còn hiện diện cùng với các Tông đồ, được ký thuật trong sách [[Sách Công vụ Tông đồ|Công vụ các Sứ đồ]] (Công vụ Tông đồ).
 
=== Các Thư Tín ===
Dòng 27:
Đây là những thư được tin là do Phao-lô viết gởi các cá nhân hoặc các nhóm tín hữu khác nhau. Tên của chúng được gọi theo tên người nhận.
 
* [[Thư gửi tín hữu Rôma]] - [[Sứ đồ Phaolô|Sứ đồ Phao-lô]]
* [[Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô]] (Κόρινθος ''Kórinthos'')– Phao-lô
* [[Thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô]] – Phao-lô
Dòng 57:
 
== Ngôn ngữ ==
Ngôn ngữ đàm thoại phổ thông trong thời Chúa Giê-su là [[tiếng Aram]]. Tuy nhiên, nguyên bản của Tân Ước được viết bằng một [[phương ngữ Hi lạp cổ]] (''Koine Greek'') được dùng phổ biến trong đại chúng tại các tỉnh thuộc Đế quốc La Mã vào [[thế kỷ 1|thế kỷ thứ 1]], từ đó được dịch ra các ngôn ngữ khác, quan trọng nhất là [[latinh|tiếng Latinh]], [[tiếng Syria]], và [[tiếng Coptic]]. Nhiều giáo phụ cho rằng Phúc âm Matthew khởi thuỷ được viết bằng [[tiếng Hebrew (Do Thái)]], một số giáo phụ cũng tin rằng Phaolô viết thư Do Thái bằng tiếng Hebrew, sau đó được Luca dịch ra [[tiếng Hy Lạp]]. Cả hai quan điểm này đều không nhận được nhiều ủng hộ từ các học giả hiện đại, họ cho rằng dựa trên văn phong của Phúc âm Matthew và thư Do Thái, có thể suy đoán chúng được trước tác trong nguyên văn bằng tiếng Hy lạp.
 
Cần lưu ý rằng nhiều sách trong Tân Ước, đặc biệt là Phúc âm Macô và Phúc âm Gioan được viết bằng thứ tiếng Hy Lạp chưa hoàn chỉnh. Chúng thua xa các tác phẩm cổ điển hoặc văn chương sáng tác bằng Hi văn bởi những tác giả thuộc giai tầng thượng lưu, thành phần ưu tú và các triết gia sống vào thời ấy.
Dòng 77:
Tân Ước được trước tác bởi nhiều người khác nhau. Niềm tin truyền thống cho rằng tất cả các sách này được viết bởi các sứ đồ hoặc bởi các môn đệ của họ (như Macô hay Luca). Song giới học giả hiện đại tỏ ra không đồng ý với quan điểm trên. Ngoại trừ thư Do Thái, không có nghi vấn nào về quyền tác giả của các sách kể trên cho đến [[thế kỷ 18]] khi làn sóng tra vấn về thẩm quyền của Tân Ước bắt đầu bùng phát.
 
Bảy trong số các thư tín được viết bởi Phao-lô ngày nay được các học giả công nhận là chính xác bao gồm: Roma, 1 Côrintô, 2 Côrintô, Galat, Philippi, 1 Thessalonica và Philemon. Nhưng họ không thể đồng ý với nhau có phải Phao-lô là tác giả của 2 Thessalonica, Colôsê và Ephêxô hay không. Nhìn chung, chỉ có giới học giả Tin Lành (''Evangelical'') chấp nhận quan điểm cho rằng Phao-lô là tác giả của các thư mục vụ (1 Timothy, 2 Timothy và Titus). Ngày nay, hầu như không có học giả nào cho rằng Phao-lô viết thư Do Thái. Thật vậy, cuộc tranh luận về tác giả thư Do Thái, thư tín duy nhất không có tên tác giả, bắt đầu từ thời kỳ các giáo phụ. [[Tertullian]] gợi ý đó là [[Barnabas]], nhưng [[Clement của Alexandria|Clement thành Alexandria]] suy đoán rằng thư này được viết bởi Phao-lô, dịch bởi Luca hoặc bởi Clement thành Roma (sau này là [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Clêmentê I|Clement I]]). Còn [[Origen]] (Ὠριγένης), ngay giữa cuộc tranh luận, cho rằng "chỉ có Chúa mới biết" ai thật sự là tác giả.
 
Trong các sách được cho là viết bởi sứ đồ Gioan, Phúc âm Gioan và thư Gioan thứ nhất được chấp nhận là của Gioan, vấn đề còn lại là xem tác giả sách Khải Huyền là sứ đồ Gioan hay là một Gioan nào khác.
Dòng 88:
 
== Thời điểm trước tác ==
Theo truyền thống, những sách được viết đầu tiên là các thư tín của [[Sứ đồ Phaolô|Phao-lô]], các sách sau cùng được cho là của Sứ đồ John (''Gioan'' hoặc ''Giăng''). Tương truyền Gioan có tuổi thọ cao, có lẽ đến 100 tuổi, tuy điều này xem ra không có nhiều tính thuyết phục. Irenaeus thành Lyons, vào khoảng năm [[185]], thuật rằng Phúc âm Matthew và Phúc âm Mark (''Macô'' hoặc ''Mác'') được viết đang lúc Peter (''Phê-rô'' hoặc ''Phi-e-rơ'') và Phao-lô thuyết giáo tại Roma, có lẽ vào [[thập niên 60]]. Phúc âm Luca được trước tác một thời gian sau đó.
 
Người ta tin là Phúc âm Mác được viết sau năm [[65]], Phúc âm Matthew (''Matthêu'' hoặc ''Ma-thi-ơ'') được trước tác vào một thời điểm nào đó giữa năm [[70]] và [[85]]. Thời điểm dành cho Phúc âm Luca được đặt trong khung thời gian giữa các năm [[80]] và [[95]]. Sách được viết sớm nhất của Tân Ước có lẽ là 1 Thessalonica, một thư tín của Phao-lô, được viết khoảng năm 51 hoặc thư Galat vào năm [[49]].
Dòng 94:
Tuy nhiên, [[John A. T. Robinson]], tác giả quyển ''Redating the New Testament'' (1976), cho rằng toàn bộ các sách Tân Ước được hoàn tất trước năm [[70]], thời điểm đền thờ tại [[Jerusalem]] bị huỷ phá. Theo lập luận của Robinson, sự phá hủy đền thờ đã được tiên báo bởi [[Cuộc đời Chúa Giê-xu theo Tân Ước|Chúa Giê-xu]] và được chép trong Ma-thi-ơ 24. 15 – 21 và Luca 23. 28 – 31, các tác giả của hai Phúc âm này và của các sách khác trong Tân Ước không thể không chỉ ra sự ứng nghiệm lời tiên tri. Quan điểm của Robinson được chấp nhận rộng rãi trong vòng các tín hữu [[Phong trào Tin Lành|Tin Lành]] (''Evangelical'').
 
Vào [[thập niên 1830]], các học giả của trường [[Tübingen]] (tại [[Đức]]) ấn định thời điểm trước tác của các sách Tân Ước đến [[thế kỷ 3|thế kỷ thứ 3]], nhưng sự phát hiện một số bản cổ sao Tân Ước có niên đại năm [[125]] dẫn đến những nghi vấn về quan điểm này. Hơn nữa, Clement thành Roma vào năm [[95]], trong một bức thư gởi đến hội thánh tại [[Corintho]] (Κόρινθος ''Kórinthos''), trích dẫn 10 trong số 27 sách của Tân Ước, và trong một bức thư gởi hội thánh tại [[Philippi]] (Φἱλιπποι ''Philippo''), [[Polycarp]] trích dẫn 120 lần từ 16 sách Tân Ước.
 
== Tuyển chọn ==
Một qui trình phức tạp và kéo dài được áp dụng cho việc tuyển chọn (quy điển) cho Tân Ước. Đặc điểm của các sách được chọn là phải được đông đảo tín hữu công nhận là có tính soi dẫn khi được dùng trong thờ phụng và giảng dạy, phù hợp với bối cảnh lịch sử của chúng, và hài hoà với Kinh thánh Do Thái (các cộng đồng Cơ đốc đầu tiên hầu hết là người Do Thái). Bằng cách này, các sách được công nhận là sự mặc khải về Giao Ước Mới phải vượt qua sự sàng lọc không phải tại các buổi họp của các công đồng nhưng tại các buổi thờ phụng kín giấu của các nông dân thuộc giai cấp hạ lưu trong thời kỳ hội thánh đang bị bách hại.
 
Trong ba thế kỷ đầu của hội thánh không có sự đồng thuận hoàn toàn về kinh điển Tân Ước. Vào [[thế kỷ 2|thế kỷ thứ 2]] xuất hiện một tuyển tập các thư tín và các sách Phúc âm được các nhà lãnh đạo hội thánh xem là có thẩm quyền, bao gồm bốn sách Phúc âm và nhiều thư tín của Phao-lô. [[Justin Martyr]], [[Irenaenus]] và [[Tertullian]] (thuộc thế kỷ thứ 2) tin rằng chúng có sự soi dẫn thần thượng như [[Tanakh|Kinh thánh Do Thái]] (Cựu Ước). Những sách khác, dù được tôn trọng và yêu thích, dần dần được xếp vào danh sách các thứ kinh.
 
Một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm xác lập một bộ kinh điển đến từ Marcion. Ông bác bỏ toàn bộ Cựu Ước và chỉ giữ lại trong danh sách của mình Phúc âm Luca và mười trong số các thư tín của Phao-lô. Quan điểm không chính thống này, cùng với nền thần học khả tri (''gnostic'') của ông, bị đa số tín hữu khước từ.
Dòng 113:
 
=== Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương ===
Đối với [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo Rôma]] và [[Chính Thống giáo Đông phương]], đồng tồn tại hai nhân tố của sự mặc khải, ''Thánh Kinh'' và ''Thánh truyền'' (tức các truyền thống Tông đồ), được luận giải theo sự dạy dỗ của giáo hội. Theo thuật ngữ Công giáo, thẩm quyền giải thích kinh thánh và truyền thống thuộc ''Magisterium'' (gồm có [[giáo hoàng]] và một số [[giám mục]] thuộc quyền), trong khi Chính Thống giáo dành quyền này cho các công đồng.
 
=== Kháng Cách ===
Xác tín với giáo lý Duy Thánh Kinh (xem [[Năm Tín lý Duy nhất]]), tín hữu [[Tin Lành|Kháng Cách]] tin rằng [[Đứcđức tin Kitô Đốcgiáo|đức tin]], sống đạo và giáo huấn của họ phù hợp với Kinh Thánh và công nhận Kinh Thánh là thẩm quyền duy nhất.
==== Tin Lành và Nền tảng ====
Những người theo khuynh hướng [[Phong trào Tin Lành|Tin Lành]] (''Evangelicalism'') và Nền tảng (''Fundamentalism'') tin rằng có hai nhân tố trong sự mặc khải: con người và thần thượng. Nhân tố con người hiện diện trong văn phong của các tác giả và nhân tố thần thượng trong sự soi dẫn của [[Chúa Thánh Linh]] sao cho mọi điều họ viết đều phù hợp với chân lý.
Dòng 127:
* [[Cựu Ước]]
* [[Kinh Thánh]]
* [[Kinh Thánh Tiếng Việt (1926)|Kinh Thánh Tiếng Việt 1926]]
 
== Liên kết ngoài ==