Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tây Hạ Cảnh Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 10 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q7438 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Tây Hạ Cảnh Tông
| tước vị = [[Hoàng đế]] [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]
| thêm = china
| hình =
Dòng 24:
| miếu hiệu = Cảnh Tông (景宗)
| thụy hiệu = Võ Liệt hoàng đế (武烈皇帝)
| cha = Tây Hạ Thái Tông (truy tôn) [[Thác Bạt Đức Minh|Lý Đức Minh]]
| mẹ = Mộ Dung Vệ Mộ
| vợ =
Dòng 39:
 
== Xuất thân và khởi nghiệp ==
Lý Nguyên Hạo<ref name="">chữ Hạo này còn có âm là Hiếu cho nên có sách phiên âm là Lí Nguyên Hiếu</ref>, có tài liệu chép là tên chữ Hán là Lý Nguyên Mân, tên Đảng Hạng là Thác Bạt Nang Tiểu, là con trai của [[Thác Bạt Đức Minh|Lý Đức Minh]] - thủ lĩnh của tộc [[Đảng Hạng]]. Mẹ ông có tên là Vệ Mộ, họ là [[Mộ Dung]] ( Mộ Dung là dòng họ lập ra nước [[Nam Yên]] (398-410) thời [[Ngũ Hồ thập lục quốc]]). Từ nhỏ, ông là một cậu bé thông minh, ham học, thích nghiên cứu những điều lý thú trong thiên nhiên. Nhờ sự học hành giỏi giang đó, khi lớn lên, Lý Nguyên Hạo là một người có học thức uyên bác. Ông lại thông giỏi 2 thứ tiếng: [[tiếng Tạng|tiếng Tây Tạng]] và [[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]] ([[chữ Hán]]). Ngay từ tuổi thiếu thời đến khi trưởng thành, ngoài việc học hành, Nguyên Hạo còn được huấn luyện trở thành một nhà [[chiến lược quân sự]] xuất chúng. Lý Nguyên Hạo là một người văn võ song toàn, duy chỉ có tật xấu là ham ăn{{fact}}.
 
Năm 1028, theo lệnh của cha ông thống lãnh quân Đảng Hạng đánh chiếm Cam Châu, thừa thắng tấn công cả phủ Tây Lương, khống chế cả vùng phía Tây Hoàng Hà và khu vự Hà Thao. Do chiến công này, Lý Đức Minh đã lập ông làm Thái tử, dự định sẽ lập quốc.
Dòng 48:
Khi làm thủ lĩnh, Lý Nguyên Hạo kế thừa ước mơ của cha và ông nội là kiến quốc, xưng đế, xây dựng một triều đại thịnh vượng. Ông sinh ra trong thời buổi li loạn, đất nước Trung Quốc có loạn, [[nhà Đường]] mất, rồi tiếp đó là thời kỳ [[Ngũ Đại Thập Quốc]]. Sau đó, thời kỳ này cũng chấm dứt, [[nhà Tống]] lên thay. Quân đội nhà Tống tích cực bành trướng lãnh thổ, mong muốn thống nhất Trung Nguyên. Tống binh từng đem binh đánh sang miền đất của ông, kết quả bị ông đánh cho đại bại. Phải nói trong cuộc lãnh đạo quân đội của mình chống xâm lăng, ông là "một người lãnh đạo bền bỉ và mạnh mẽ"{{fact}}.
 
Năm 1034, Lý Nguyên Hạo đem quân tấn công lộ Hoàn Khánh, kết quả là đại thắng, bắt được tướng Tống là [[Tề Tông Củ]]. Sau đó, Cảnh Tông chuyển hướng sang tấn công tộc [[Người Uyghur|Duy Ngô Nhĩ]] ở phía Tây vào năm 1036. Cuộc chiến với người Duy Ngô Nhĩ có vẻ mang lại nhiều thắng lợi hơn, ông thắng được bộ tộc này, chiếm lấy một dải đất rộng lớn mà ngày nay chính là tỉnh [[Cam Túc]]. Để chiếm được một miền đất rộng lớn như vậy cũng phải mất một thời gian hơi lâu.
 
Năm 1038, Lý Nguyên Hạo chính thức lên ngôi [[hoàng đế]], lấy quốc hiệu là Đại Hạ, đóng đô tại phủ Hưng Khánh (nay là [[Ngân Xuyên]], khu tự trị [[Ninh Hạ]], Trung Quốc). Nhà Tống chỉ gọi Đại Hạ của ông là Tây Hạ.
Dòng 55:
Ngay khi lên ngôi hoàng đế, Cảnh Tông sai đại thần Gia Luật Nhân Vinh phỏng theo văn tự Khiết Đan, lập ra chữ viết Tây Hạ, dốc sức phát triển văn hóa, giáo dục. Bên cạnh đó, Cảnh Tông 3 lần phát động chiến dịch đánh Tống: Tam Xuyên (nay thuộc Diên An, Thiểm Tây), Hiếu Thủy (nay thuộc Long Đức, Ninh Hạ) và Định Xuyên (nay thuộc Cố Nguyên, Cam Túc) và đều thắng lớn cả 3 trận. Quân Tây Hạ cũng đụng độ với quân Liêu và đại thắng ở trận núi Hạ Lan, từ đó khẳng định vị thế chân vạc với Tống - Liêu.
 
Mục tiêu của Cảnh Tông là chiếm giữ vùng đất Quan Trung, nên dốc lực công phá Trường An, tuy nhiên quân Tống ngoan cường chống trả, đánh bại quân Tây Hạ. Do phát động chiến tranh liên tục làm ảnh hưởng đến kinh tế Tây Hạ, binh lực cũng không đủ sức tham chiến dài lâu, Cảnh Tông buộc phải ký hòa ước Khánh Lịch 1044 với Tống, qua đó tạo uy hiếp với Liêu quốc. Dù phải xưng thần với Tống và [[Tống Nhân Tông]] công nhận Cảnh Tông là [[vua|quốc vương]] xứ Thổ Phồn (Hạ quốc vương), nhưng đổi lại, [[nhà Tống]] mỗi năm phải "cho" trà và bạc mỗi thứ 25 vạn rưỡi lạng cho Tây Hạ{{fact}}. Tuy quân Tây Hạ rút đi để trả lại thành cho nhà Tống, khi rút lui, họ dùng chiến lược [[tiêu thổ]], mang đi hoặc đốt cháy quân dụng của Tống. Nhà Tống chỉ còn tiếp nhận được những tòa thành rỗng không.
 
Sau khi đình chiến với Tống, Cảnh Tông bắt đầu thời kỳ xây dựng đất nước. Đầu tiên, ông ra sức củng cố chính quyền, dùng những người Hán làm cố vấn trong triều. Bản thân Cảnh Tông cũng biết tiếng Hán, cũng hâm mộ văn hóa Hán, nên từ cải cách, củng cố đến tổ chức của ông cũng đều y theo người Hán. Lối xưng hô, cách ăn mặc, cách học tập cũng như vậy. Ông khuyến khích quan dân học tiếng Hán, cho in ấn nhiều sách vở, dịch văn tự từ tiếng Hán sang tiếng Thổ Phồn.