Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tây Liêu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 20 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q862304 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 8:
Thủ đô của nó, [[Balasagun]] (ngày nay thuộc [[Kyrgyzstan]]) đã từng phát triển như một trung tâm văn hóa và kinh tế.
 
Thị tộc [[Hồi giáo]] của các hoàng thân Qarluk, Balasaghunlu Ashinalar (những người Karakhanid) đã đến khu vực văn hóa Hồi giáo [[Iran|Ba Tư]] sau khi sự độc lập và chủ quyền chính trị của họ trên khu vực Trung Á đạt được trong [[thế kỷ 9]]-[[thế kỷ 10|10]].
 
Khi họ càng trở nên Ba Tư hóa nhiều hơn (thời điểm chấp nhận "Afrasiab", một nhân vật huyền thoại Shahnameh như là tổ tiên trực hệ của họ), họ đã sống trong các trung tâm cố định mang tính [[Ấn Độ]]-[[Iran]] nhiều hơn, chẳng hạn như Qashgari và quên dần đi các truyền thống du cư của những người Qarluq anh em, nhiều người trong số họ là sự hòa trộn tôn giáo giữa 3 dòng Thiên chúa giáo Nestorian-Phật giáo Đại Thừa-Mani giáo của hãn quốc Hồi Hột trước đây.
 
Khi người Khiết Đan tới, cùng với việc thuê những [[người Nãi Man]] theo [[Thiên Chúa giáo|Thiên chúa giáo]] dòng Nestorian, họ còn thu nhận được sự ủng hộ trong số những người Qarluk từ Semirechye đến khu vực Irtysh.
 
Mặc dù trong các nguyên tắc tổ chức chủ yếu là dựa theo [[Phật giáo]] [[Đại thừa]] và [[Nho giáo|Khổng giáo]], nhưng các quý tộc Khiết Đan cũng chấp nhận rộng rãi các yếu tố của Thiên chúa giáo dòng Nestorian, được phản ánh trong các tên gọi theo kiểu Thiên chúa giáo của các hãn vương (Gur-Khans) của Kara-Khiết Đan.
 
Sự xâm chiếm của người Khiết Đan vào Trung Á có thể coi như cuộc đấu tranh nội bộ của bộ lạc du cư Qarluk, được thể hiện ra ngoài như là mâu thuẫn triều chính giữa tầng lớp quý tộc Khiết Đan xâm lăng và các hoàng tử Kara-Khanid phòng ngự, tạo ra trong sự chinh phục những người sau bởi những người trước và trong sự chinh phục những người Qarluk Hồi giáo bởi những họ hàng của họ và những người Nãi Man theo Thiên chúa giáo dòng Nestorian.
Dòng 20:
== Quá trình phát triển và suy vong ==
[[Tập tin:Asia 1200ad.jpg|nhỏ|300px|Bản đồ Châu Á năm 1200 cho thấy lãnh thổ hãn quốc Kara-Khiết Đan và các quốc gia khác.]]
Trước đó năm 1123, Thiên tộ hoàng đế nhà Liêu không nghe lời Gia Luật Đại Thạch nên hoàn toàn bại trong tay quân Kim. Năm 1125, Liêu diệt vong. Gia Luật Đại Thạch đem quân tiến sang phía tây, bình định được các vùng Imil,Khadidistan. Sau chiếm cả vùng Trung Á chiếm giữ xứ Tầm Tư Can (Samarkand), xưng vương, xưng đế, cai trị suốt cả một vùng đông tây xứ Thông Lĩnh, lập nên đế quốc Tây Liêu, kề sát bên [[đế quốc Đại Seljuk]] của người Hồi giáo trải dài từ bờ biển Địa Trung Hải cho đến Trung Á. Lúc đó các nước [[Armenia]], [[Gruzia]], [[nhàNhà AbbasidAbbas|Ả Rập]], Qarakhanids và Gaznawids đều là chư hầu của Đại Seljuk.
 
Vào thời gian này đế quốc Đại Seljuk ở Trung Á đã suy yếu, quân Tây Liêu tràn sang phía đông lãnh thổ Đại Seljuk và tiêu diệt chư hầu quan trọng của đế quốc Đại Seljuk là Đông Qarakhanids. Vào năm 1141 tại [[trận Qawan]] quân Tây Liêu đánh bại [[sultan]] [[Ahmed Sanjar]] nhà Seljuk, thu được nhiều của cải chở về kinh đô Balasagun. Tây Liêu chiếm được phần phía đông của đế quốc Seljuk cho đến sông Sayhun (Jaxartes), không lâu sau đó đế quốc Seljuk sụp đổ vào năm 1157. Tây Liêu là nước duy nhất lúc ấy đánh bại được đế quốc Seljuk hùng mạnh, đến nỗi Giáo hoàng tưởng nhầm Gia luật Đại Thạch là một đại vương Thiên Chúa giáo, bởi không phải đại Thiên chúa giáo thì làm sao đánh nổi Thổ, tôn xưng là giáo sĩ Jean, người đại diện cho Thiên Chúa giáo ở phương Đông. Tây Liêu có các chư hầu Khwarezm, Qarluqs, Cao Xương Hồi Cốt, Khương Lý và Đông, Tây Fergana Kara-Khanids và [[người Nãi Man]].
Dòng 35:
|-
| style="background: #efefef;" | [[Miếu hiệu]]
| style="background: #efefef;" | [[Thụy hiệu|Thuỵ hiệu]]
| style="background: #efefef;" | Tên
| style="background: #efefef;" | Thông thường
Dòng 54:
|-
| Không tồn tại
| [[Tiêu Tháp Bất Yên|Cảm Thiên Hậu]] (感天后 Gǎntiānhòu)
| Tháp Bất Yên (塔不煙 Tǎbùyān)
| "Tây Liêu" + thuỵ hiệu
Dòng 61:
 
|-
| [[TâyDa LiêuLuật NhânDi TôngLiệt|Nhân Tông]] (仁宗 Rénzōng)
| Không thấy nhắc đến
| Da Luật Di Liệt (耶律夷列 Yēlǜ Yíliè)
Dòng 70:
|-
| Không tồn tại
| [[HoàngDa hậuLuật ThừaPhổ ThiênTốc của Tây LiêuHoàn|Thừa Thiên Hậu]] (承天后 Chéngtiānhòu)
| [[Da Luật Phổ Tốc Hoàn]] (耶律普速完 Yēlǜ Pǔsùwán)
| "Tây Liêu" + đế hiệu
Dòng 87:
| Không tồn tại
| Không tồn tại
| [[Khuất Xuất Luật]] (Kuchlug) ([[Tiếng Trung Quốc|Tiếng Trung]] 屈出律 Qūchūlǜ)
| Sử dụng tên thật
| [[1211]]-[[1218]]
Dòng 97:
 
== Tiểu thuyết ==
Trong truyện ''[[Thiên long bát bộ|Thiên Long Bát Bộ]]'' của nhà văn [[Kim Dung]] thì nhân vật chính nhân quân tử Tiêu Phong mà rất nhiều người yêu thích, mến mộ cũng thuộc tộc người Khiết Đan. Tuy nhiên, thời mà Kim Dung miêu tả trong truyện này khoảng vào những năm mà [[nhà Liêu]] còn tồn tại dưới thời [[Liêu Đạo Tông]] (tức Da Luật Hồng Cơ) ([[1055]]-[[1101]]), chứ không phải thời kỳ sau này của Tây Liêu. Rất nhiều người khi đọc các tác phẩm của Kim Dung đã nhầm nhà Liêu (ở đông bắc Trung Quốc) với Tây Liêu (ở vùng Trung Á) và hai thời kỳ này khác hẳn nhau.
 
== Xem thêm ==
*[[Kara-Khanid|Hãn quốc Kara-Khanid]]
 
{{Liên kết bài chất lượng tốt|pl}}