Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tĩnh Hải quân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q6666168 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 15:
 
=== Thời tự chủ ===
Cuối [[thế kỷ 9]], tại Trung Quốc nổ ra khởi nghĩa [[Hoàng Sào]]. Khởi nghĩa bị tiêu diệt nhưng các quân phiệt cũng nhân đó gây nội chiến và cát cứ công khai. Nhà Đường bị quyền thần [[Hậu Lương Thái Tổ|Chu Ôn]] khống chế.
 
Năm [[905]], Chu Ôn ghét Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân là Độc Cô Tổn là người không cùng cánh, bèn đày ra đảo [[Hải Nam]] và giết chết. Trong lúc nhà Đường chưa kịp cử quan cai trị mới sang trấn nhậm, một hào trưởng người Việt là [[Khúc Thừa Dụ]] đã chiếm lấy thủ phủ [[Đại La]]<ref>Tống Bình cũ, từ khi [[Cao Biền]] sang trấn nhậm xây lại và đổi tên gọi</ref>, tự xưng là [[Tiết độ sứ]]. Chu Ôn đang mưu cướp ngôi nhà Đường, đã nhân danh vua Đường thừa nhận Khúc Thừa Dụ. Từ đó người Việt bắt đầu khôi phục quyền tự chủ.
Dòng 21:
Sau Khúc Thừa Dụ, con là [[Khúc Hạo]] thực hiện [[cải cách thời Khúc Hạo|cải cách]] hành chính, củng cố quyền hành ở Tĩnh Hải quân. Cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân được chia thành 314 giáp.
 
Nhà [[Hậu Lương]], trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907. Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là [[Hậu Lương Thái Tổ|Chu Ôn]] lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức “Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ”. Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam<ref>[[Phan Huy Lê]], [[Trần Quốc Vượng]], [[Hà Văn Tấn]], [[Lương Ninh]], sách đã dẫn, tr 293</ref>.
 
Năm [[911]], Lưu Ẩn chết, em là [[Nam Hán Cao Tổ|Lưu Nghiễm]] lên thay. Sự cai trị vững vàng của Khúc Hạo khiến họ Lưu ở Quảng Châu không dám nhòm ngó tới phương nam. Năm [[917]], Lưu Nghiễm tự xưng đế, lập ra nước [[Nam Hán]], cát cứ vùng Ngũ Lĩnh không thần phục nhà Lương.
 
Cuối năm 917 Khúc Hạo mất, con là [[Khúc Thừa Mỹ]] lên thay. Khúc Thừa Mỹ chủ trương kết thân với nhà Hậu Lương ở trung nguyên. Năm [[919]], ông sai sứ sang Biện Kinh xin tiết việt của nhà Hậu Lương. Vua Lương là Mạt đế [[Chu Hữu Trinh]], bấy giờ bận đối phó với các nước lớn ở Trung nguyên nên ban Tiết Việt cho Khúc Thừa Mỹ và phong ông làm Tiết độ sứ. Được sự hậu thuẫn của [[nhà Hậu Lương]], Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Lương rộng lớn ở Trung nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Ông công khai gọi nước Nam Hán là “ngụy đình”.
Dòng 33:
Năm [[937]], Dương Đình Nghệ bị nha tướng [[Kiều Công Tiễn]] phản bội, giết chết và cướp quyền, tự xưng Tiết độ sứ.
 
Năm [[938]], con rể Dương Đình Nghệ là [[Ngô Quyền]] từ Ái châu tập hợp lực lượng ra đánh chiếm thành [[Đại La]], giết chết [[Kiều Công Tiễn]]. Cuối năm đó Ngô Quyền đánh bại quân [[Nam Hán]] sang đánh Tĩnh Hải quân với danh nghĩa giúp Kiều Công Tiễn tại [[trận Bạch Đằng, (938)|trận Bạch Đằng]].
 
=== Thời Ngô ===
Dòng 45:
Nhà Ngô mất. Các tướng lĩnh cũ của nhà Ngô và các hào trưởng địa phương cùng nhau nổi dậy chiếm giữ đất đai cát cứ, sử gọi là thời [[loạn 12 sứ quân]].
 
Thủ lĩnh cát cứ ở [[Hoa Lư]] từ thời Ngô Xương Ngập là [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]] sau khi liên kết với sứ quân [[Trần Lãm]] (một trong 12 sứ quân) đã đánh dẹp các sứ quân còn lại. Năm [[968]], Đinh Bộ Lĩnh thống nhất cả nước, tự xưng làm [[hoàng đế]], tức là vua [[Đinh Tiên Hoàng]]. Tên gọi Tĩnh Hải quân chấm dứt sau 102 năm khi vua Đinh đặt tên nước là [[Đại Cồ Việt]]<ref name="dvsktt1">[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt06.html Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ quyển 1]</ref><ref>Đào Tố Uyên, sách đã dẫn, tr 26</ref>.
 
== Lãnh thổ ==
Dòng 91:
 
== Trong quan hệ ngoại giao đời sau ==
Tên gọi Tĩnh Hải quân vẫn được các triều đình phương Bắc dùng làm một tên gọi Việt Nam. Khi phong chức cho các vua hay hoàng tử [[nhà Đinh]], nhà [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] và [[nhà Lý]] của Việt Nam, các vua [[nhà Tống|Tống]] vẫn dùng tước hiệu gắn với địa danh Tĩnh Hải quân:
* Năm [[973]] nhà Tống sai sứ sang phong cho [[Đinh Tiên Hoàng]] làm Giao Chỉ quận vương, hoàng tử [[Đinh Liễn]] làm ''Kiểm hiệu thái sư Tĩnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ''<ref name="dvsktt1"/>.
* Năm [[986]], nhà Tống sai Lý Nhược Chuyết, Lý Giác mang chế sách sang phong cho [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]] làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sử kinh triệu quận hầu<ref name="dvsktt1"/>.
* Năm [[1007]], nhà Tống phong [[Lê Long Đĩnh]] làm Giao Chỉ quận vương, lĩnh ''Tĩnh Hải quân tiết độ sứ''<ref name="dvsktt1"/>.
* Năm [[1010]], nhà Tống phong [[Lý Thái Tổ]] làm Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<ref name="dvsktt2">[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt07.html Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ quyển 2]</ref>.
Dòng 228:
== Tham khảo ==
* [[Đại Việt sử ký toàn thư]]
* [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục|Khâm định Việt sử thông giám cương mục]]
* [[Phan Huy Lê]], [[Trần Quốc Vượng]], [[Hà Văn Tấn]], [[Lương Ninh]] ([[1991]]), ''Lịch sử Việt Nam, tập 1'', NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp
* Viện Sử học ([[2001]]), ''Lịch sử Việt Nam, tập 1'', NXB Khoa học xã hội