Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Astoria (CA-34)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 4 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q2707611 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 37:
|}
 
'''USS ''Astoria'' (CA-34)''' (trước đó là '''CL-34''') là một [[tàu tuần dương hạng nặng]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]] thuộc [[New Orleans (lớp tàu tuần dương) (1931)|lớp ''New Orleans'']], là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố [[Astoria, Oregon|Astoria]] thuộc tiểu bang [[Oregon]]. ''Astoria'' đã tham gia các trận [[Trận chiến biển Coral|biển Coral]] và [[trận Midway|Midway]] tại [[Chiến tranh Thái Bình Dương|Mặt trận Thái Bình Dương]] vào giai đoạn đầu của [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]] trước khi bị đánh chìm trong [[trận chiến đảo Savo]] vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1942]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
Dòng 46:
== Lịch sử hoạt động ==
=== Những năm giữa hai cuộc thế chiến ===
Trong mùa Hè năm [[1934]], ''Astoria'' thực hiện chuyến đi chạy thử máy kéo dài trong đó nó thực hiện cuộc hành trình khắp khu vực Thái Bình Dương. Ngoài [[quần đảo Hawaii]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng còn ghé thăm [[Samoa]], [[Fiji]], [[Sydney]] [[Úc|Australia]], và [[Nouméa]] thuộc [[Nouvelle-Calédonie|New Caledonia]]. Nó quay trở về [[San Francisco]] vào ngày [[26 tháng 9]] năm [[1934]].
 
Từ mùa Thu năm [[1934]] đến [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1937]], ''Astoria'' hoạt động như một đơn vị của Hải đội Tuần dương 7 thuộc [[Lực lượng Tuần Tiễu]], đặt căn cứ tại [[San Pedro, California]]. Đến [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1937]], nó được chuyển sang Hải đội Tuần dương 6, cho dù nó vẫn phục vụ trong thành phần của Lực lượng Tuần tiễu từ San Pedro. Trong cả hai lượt bố trí, nó tiến hành các hoạt động cơ động thời bình thường xuyên, mà cao điểm là các cuộc tập trận vấn đề hạm đội hàng năm tập trung toàn bộ Hạm đội Hoa Kỳ trong một cuộc thao dợt lớn duy nhất.
 
=== Nhiệm vụ đặc biệt ===
Vào đầu năm [[1939]], cuộc tập trận [[Vấn đề Hạm đội XX]] đã tập trung hạm đội tại khu vực quần đảo [[Vùng Caribe|Tây Ấn]], và vào lúc nó kết thúc, ''Astoria'' vội vã khởi hành từ đảo [[Culebra]] vào ngày [[3 tháng 3]] năm [[1939]] để hướng đến [[vịnh Chesapeake]]. Sau khi được chất đầy tiếp liệu và tiếp nhiên liệu tại [[Norfolk, Virginia]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng tiếp tục đi đến [[Annapolis, Maryland]], nơi nó nhận lên tàu di hài của nguyên [[Đại sứ]] Nhật Bản tại Hoa Kỳ [[Hiroshi Saito]] để đưa trở về Nhật Bản, một hành động đáp trả nhằm tỏ lòng biết ơn của Mỹ đối với người Nhật khi đã đưa di hài của vị Đại sứ Hoa Kỳ tại Nhật Bản [[Edgar A. Bancroft]] trên một trong những chiếc tàu chiến của họ vào năm [[1926]]. ''Astoria'' khởi hành từ Annapolis vào ngày [[18 tháng 3]] năm [[1939]], tro cốt của Saito được hộ tống bởi [[Naokichi Kitazawa]], Bí thư thứ hai Đại sứ quán Nhật Bản tại Washington.
 
Đi đến [[Khu vực kênh đào Panama]] không lâu sau đó, nơi nhiều sĩ quan cao cấp và một đoàn đại biểu kiều dân Nhật tại Panama đến viếng để tỏ lòng kính trọng Saito, ''Astoria'' lên đường hướng đến [[Hawaii]] vào ngày [[24 tháng 3]]. Nó thả neo tại [[Honolulu]] vào ngày [[4 tháng 4]], đúng ngày mà bà Saito cùng hai người con gái đi đến trên chiếc [[tàu biển chở hành khách]] ''Tatsuta Maru''. Hai ngày sau, chiếc tàu tuần dương hạng nặng rời [[Diamond Head, Hawaii|Diamond Head]] hướng về phía Tây vượt Thái Bình Dương.
Dòng 59:
Sau lễ [[quốc tang]], Nhật Bản chứng tỏ lòng hiếu khách rộng rãi của họ đối với chiếc tàu tuần dương viếng thăm và người của nó. Về phần mình, Đại tá Turner cũng đã làm hài lòng Đại sứ Mỹ tại Nhật Bản [[Joseph C. Grew]] nhờ vai trò ngoại giao của mình trong các sự kiện diễn ra. Tùy viên Hải quân tại Tokyo, Đại tá [[Harold M. Bemis]], sau đó ghi nhận rằng việc lựa chọn Turner trong nhiệm vụ ngoại giao tế nhị này "là một điều đặc biệt may mắn...." Để bày tỏ lòng biết ơn và sự ngưỡng mộ đối với sự đồng cảm và lịch sự của người Mỹ, vợ và các con của ngài Hirosi Saito đã trao tặng một chiếc tháp cho con tàu. [http://www.dcmemorials.com/index_indiv0003258.htm Chiếc tháp này] hiện được đặt tại phía trước sảnh Luce của [[Học viện Hải quân Hoa Kỳ]].
 
''Astoria'' lên đường đi đến [[Thượng Hải]], [[Trung Quốc]] vào ngày [[26 tháng 4]], và đến nơi sáng ngày [[29 tháng 4]]. Nó ở lại Thượng Hải cho đến ngày [[1 tháng 5]]. Sau khi đón Đô đốc [[Harry E. Yarnell]], Tổng tư lệnh [[Hạm đội Á Châu Hoa Hoa Kỳ|Hạm đội Á Châu]], lên tàu trong một chuyến viếng thăm xã giao, ''Astoria'' lên đường hướng đến [[Hồng Kông|Hong Kong]] trưa hôm đó. Tiếp theo sau cuộc viếng thăm Hong Kong, ''Astoria'' dừng một chặng ngắn tại [[Philippines]] trước khi tiếp tục đi đến [[Guam]]. Khi nó đi đến Guam vào sáng sớm ngày [[21 tháng 5]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng nhận được lệnh đến trợ giúp những chiếc [[USS Penguin (AM-33)|USS ''Penguin'' (AM-33)]] và [[USS Robert L. Barnes (AG-27)|USS ''Robert L. Barnes'' (AG-27)]] trong một nỗ lực thành công giúp làm nổi lại chiếc tàu vận tải chở binh lính ''U. S. Grant'' của Lục quân bị mắc cạn. Không lâu sau đó, ''Astoria'' tham gia cuộc tìm kiếm nhà văn và thám hiểm nổi tiếng [[Richard Halliburton]] và các bạn đồng hành, khi ông ta dự định vượt Thái Bình Dương từ San Francisco đến Hong Kong trên chiếc thuyền mành Trung Quốc [[Sea Dragon (thuyền mành)|''Sea Dragon'']]. Chiếc tàu tuần dương đã lùng sục hơn 420.000&nbsp;km<sup>2</sup> (162.000 dặm vuông) trên biển Thái Bình Dương mà không thành công, trước khi nó chấm dứt cuộc tìm kiếm vào ngày [[29 tháng 5]].
 
=== Bố trí đến Trân Châu Cảng ===
Được bố trí vào lực lượng trú đóng tại Hawaii vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1939]], ''Astoria'' chuyển cảng nhà từ San Pedro đến [[Trân Châu Cảng]]. Trong mùa Xuân tiếp theo, nó tham gia [[Vấn đề Hạm đội XXI]], cuộc tập trận lớn hàng năm cuối cùng vốn tập trung toàn thể hạm đội Hoa Kỳ được tiến hành trước khi Mỹ tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]]. Cuộc cơ động lớn này được tổ chức tại vùng biển Hawaii, và thay vì quay trở lại bờ Tây sau khi kết thúc, phần lớn hạm đội đã gia nhập cùng với ''Astoria'' vào lực lượng tại Hawaii, lấy Trân Châu Cảng làm căn cứ hoạt động.
 
Vào ngày [[2 tháng 4]] năm [[1941]], ''Astoria'' rời Trân Châu Cảng đi đến bờ Tây. Nó về đến [[Long Beach, California]] vào ngày [[8 tháng 4]] năm và đi vào [[xưởng hải quân Mare Island]] vào ngày [[13 tháng 4]]. Trong đợt tái trang bị này, nó được bổ sung [[pháo 28 mm (1,1 inch)/75 caliber]] [[chiến tranh phòng không|phòng không]] bốn nòng và một bệ trên cột ăn-ten phía trước chuẩn bị cho việc trang bị một dàn [[ra đa|radar]] dò tìm không trung. Rời ụ tàu ngày [[11 tháng 7]] năm [[1941]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng lên đường đi Long Beach vào ngày [[16 tháng 7]]. Sau đó chuyển đến San Pedro, ''Astoria'' khởi hành đi Trân Châu Cảng vào ngày [[24 tháng 7]] năm [[1941]].
 
Sau khi quay về Hawaii vào ngày [[31 tháng 7]], ''Astoria'' hoạt động trong khu vực giữa [[Oahu]] và [[đảoĐảo san hô vòng Midway|Midway]] cho đến đầu [[tháng chín|tháng 9]]. Mùa Thu năm đó, sự ám ảnh của các tàu cướp tàu buôn Đức lảng vảng tại Thái Bình Dương đã khiến Hải quân Mỹ phải tổ chức hộ tống các [[đoàn tàu vận tải]] đi đến Guam và Philippines. ''Astoria'' đã hộ tống [[USS Henderson (AP-1)|''Henderson'' (AP-1)]] đi đến Manila và rồi đến Guam trước khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày [[29 tháng 10]]. ''Astoria'' tiếp tục các hoạt động tuần tra và huấn luyện, xen kẻ với việc bảo trì trong cảng, trong năm tuần lễ cuối cùng trước chiến tranh.
 
=== Mở màn Chiến tranh Thế giới thứ hai ===
Sau khi sự căng thẳng leo thang tại Thái Bình Dương làm tăng mối lo ngại về việc phòng thủ tại các căn cứ xa xôi của mình vào đầu [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1941]], [[Đô đốc]] [[Husband E. Kimmel]], Tổng tư lệnh [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Thái Bình Dương]], ra lệnh cho các lực lượng tăng cường, dưới dạng máy bay của Thủy quân Lục chiến, được chuyển đến [[đảo Wake]] và Midway. ''Astoria'' khởi hành vào ngày [[5 tháng 12]] trong thành phần hộ tống cho Lực lượng Đặc nhiệm 12 của [[Chuẩn Đô đốc]] [[John H. Newton]], được xây dựng chung quanh chiếc tàu sân bay [[USS Lexington (CV-2)|''Lexington'']]. Khi lực lượng đặc nhiệm đã ra khơi, liên đội không lực của ''Lexington'' cùng 18 máy bay [[Vought SB2U Vindicator|SB2U-3 Vindicator]] của Phi đội Tuần tiễu Ném bom Thủy quân Lục chiến 231 (VMSB-231) được gửi đến Midway đã hạ cánh trên [[sàn đáp]] của chiếc tàu sân bay.
 
Khi [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản|Hải quân Nhật]] [[trận Trân Châu Cảng|tấn công Trân Châu Cảng]] vào sáng ngày [[7 tháng 12]], ''Astoria'' đang ở cách khoảng 1.100&nbsp;km (700 dặm) về phía Tây Hawaii và đang hướng đến Midway cùng Lực lượng Đặc nhiệm 12. Lúc 09 giờ 00 ngày hôm sau, tàu tuần dương hạng nặng [[USS Indianapolis (CA-35)|''Indianapolis'']], [[soái hạm]] của [[Phó Đô đốc]] [[Wilson Brown]], Tư lệnh Lực lượng Tuần tiễu, gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 12, và Brown tiếp nhận quyền chỉ huy. Nhiệm vụ vận chuyển bị hủy bỏ, và Lực lượng Đặc nhiệm 12 trải qua những ngày tiếp theo truy lùng trong khu vực Tây Nam đảo Oahu với nhiệm vụ "đánh chặn và tiêu diệt mọi tàu bè đối phương chung quanh Trân Châu Cảng...."
 
Chiếc tàu tuần dương đi vào Trân Châu Cảng cùng với lực lượng của ''Lexington'' vào ngày [[13 tháng 12]], nhưng nó lại trở ra khơi vào ngày [[16 tháng 12]] để gặp gỡ và hộ tống một đoàn tàu vận tải bao gồm [[tàu chở dầu]] [[USS Neches (AO-6)|''Neches'' (AO-6)]] và [[tàu chở thủy phi cơ]] [[USS Tangier (AV-8)|''Tangier'' (AV-8)]] nhằm mục đích giải vây cho [[đảo Wake]]. Tuy nhiên, khi hòn đảo này rơi vào tay quân Nhật ngày [[23 tháng 12]], lực lượng này được gọi quay trở về. ''Astoria'' tiếp tục ở lại ngoài biển cho đến xế trưa ngày [[29 tháng 12]], khi nó quay về Oahu. Đang khi thả neo tại Trân Châu Cảng, khoảng 40 thủy thủ của thiết giáp hạm [[USS California (BB-44)|''California'']] được cho chuyển sang ''Astoria''. Họ nằm trong số người sống sót vào ngày [[7 tháng 12]], khi ''California'' bị đánh chìm trong cuộc tấn công.
 
''Astoria'' lại rời Trân Châu Cảng vào sáng ngày [[31 tháng 12]] cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 11, được hình thành chung quanh tàu sân bay [[USS Saratoga (CV-3)|''Saratoga'']], và tiếp tục trực chiến ngoài biển trong mười ngày đầu của [[tháng một|tháng 1]] năm [[1942]]. Vào ngày [[11 tháng 1]], [[tàu ngầm]] Nhật [[I-6 (tàu ngầm Nhật)|''I-6'']] bắn ngư lôi trúng chiếc tàu sân bay, buộc nó phải quay trở về Trân Châu Cảng. ''Astoria'' cùng những chiếc cùng đi trong lực lượng đặc nhiệm đã hộ tống chiếc tàu sân bay bị hư hại vào cảng an toàn sáng ngày [[13 tháng 1]] năm [[1942]].
 
Sau khi được nghỉ ngơi một thời gian ngắn tại Trân Châu Cảng, ''Astoria'' quay trở ra biển vào ngày [[19 tháng 1]] cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 11, lần này là với tàu sân bay ''Lexington'', được hộ tống ởi các [[tàu tuần dương hạng nặng]] [[USS Chicago (CA-29)|''Chicago'']] và [[USS Minneapolis (CA-36)|''Minneapolis'']] cùng chín [[tàu khu trục]], để tuần tra tại khu vực Đông Bắc tuyến [[dãy san hô Kingman]]-[[đảo Christmas]]. Vào xế trưa ngày [[21 tháng 1]], Lực lượng Đặc nhiệm 11 được lệnh gặp gỡ tàu chở dầu ''Neches'' để phối hợp tổ chức một cuộc không kích lên đảo Wake, rồi tiếp nối bằng một cuộc bắn phá bằng tàu nổi "nếu khả thi". Tuy nhiên, tin tức nhận được vào ngày [[23 tháng 1]] cho biết ''Neches'' đã là nạn nhân của một tàu ngầm Nhật, sau này được xác định là [[I-17 (tàu ngầm Nhật)|''I-17'']]. Không có được nhiên liệu quý giá của chiếc tàu chở dầu, Lực lượng Đặc nhiệm 11 không thể tiến hành cuộc tấn công theo kế hoạch. Được lệnh quay trở về Oahu, lực lượng đặc nhiệm về đến Trân Châu Cảng sáng ngày [[24 tháng 1]].
 
=== Tây Nam Thái Bình Dương cùng Lực lượng Đặc nhiệm 17 ===
Ngày [[16 tháng 2]], ''Astoria'' trở ra khơi trong một chuyến đi trở nên kéo dài đến khu vực Tây Nam Thái Bình Dương cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 17, được hình thành chung quanh tàu sân bay [[USS Yorktown (CV-5)|''Yorktown'']], bao gồm tàu tuần dương hạng nặng [[USS Louisville (CA-28)|''Louisville'']], các tàu khu trục [[USS Sims (DD-409)|''Sims'']], [[USS Anderson (DD-411)|''Anderson'']], [[USS Hammann (DD-412)|''Hammann'']] và [[USS Walke (DD-416)|''Walke'']] cùng tàu chở dầu [[USS Guadelupe (AO-32)|''Guadelupe'']], tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Frank Jack Fletcher]]. Thoạt tiên, Lực lượng Đặc nhiệm 17 được lệnh hoạt động tại khu vực phụ cận [[đảo Canton]]. Tuy nhiên, sau khi quân Nhật phát hiện ra Lực lượng Đặc nhiệm 11 đang trên đường đi đến tấn công căn cứ tiền phương mới quan trọng của họ tại [[Rabaul]], và tung ra một cuộc không kích kiên quyết nhắm vào lực lượng đặc nhiệm ''Lexington'' ngoài khơi [[đảo Bougainville|Bougainville]] trong ngày [[20 tháng 2]], Phó Đô đốc Brown đã yêu cầu tăng viện thêm một tàu sân bay thứ hai củng cố cho lực lượng của ông cho một đợt công kích vào Rabaul. Vì vậy, Lực lượng Đặc nhiệm 17 được lệnh hỗ trợ cho Brown trong nỗ lực này, và ''Astoria'' di chuyển cùng với ''Yorktown'' để gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm 11, diễn ra về phía Tây Nam quần đảo [[Tân Hebrides|New Hebrides]] vào ngày [[6 tháng 3]].
 
Lực lượng phối hợp, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Brown, tiến về hướng Rabaul cho đến khi những tin tức về cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Lae và Salamaua thuộc New Guinea khiến buộc phải thay đổi kế hoạch. Cuối ngày [[8 tháng 3]], Brown và ban tham mưu của mình quyết định chuyển mục tiêu để tấn công hai bãi đổ bộ mới của đối phương bằng cách tung máy bay của mình ra từ [[vịnh Papua]] ở phía Nam, vượt suốt chiều rộng của đảo New Guinea bên trên [[dãy núi Owen Stanley]], đến những mục tiêu trên bờ biển phía Bắc. Trong lúc đó, ''Astoria'' tham gia một lực lượng tàu nổi mà Brown cho tách ra để hoạt động tại vùng biển ngoài khơi [[đảo Rossel]] thuộc [[quần đảo Louisiade]]. Lực lượng này, còn bao gồm các tàu tuần dương hạng nặng ''Chicago'', ''Louisville'' và [[HMAS Australia (D84)|HMAS ''Australia'']] cùng các tàu khu trục ''Anderson'', ''Hammann'', [[USS Hughes (DD-410)|''Hughes'']] và ''Sims'' dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[John G. Crace]], được giao phó ba nhiệm vụ: bảo vệ sườn phải cho các tàu sân bay trong khi chúng hoạt động không quân từ vịnh Papua; bảo vệ [[port Moresby|cảng Moresby]] khỏi mọi cuộc tấn công của đối phương; và bảo vệ cho việc đổ bộ lực lượng Lục quân tại Nouméa.
 
Cuộc không kích xuống [[Lae]] và [[Salamaua]], được thực hiện bởi 104 máy bay của ''Yorktown'' và ''Lexington'' vào ngày [[10 tháng 3]] năm [[1942]], đã gây những hư hại nặng cho lực lượng đổ bộ Nhật Bản vốn đã bị tiêu hao, đánh chìm các tàu vận tải ''Kongō Maru'', ''Tenyō Maru'' và ''Yokohama Maru'' cùng tàu quét mìn ''Tama Maru số 2'', cũng như làm hư hại [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] [[Yūbari (tàu tuần dương Nhật)|''Yūbari'']], [[tàu rải mìn]] [[Tsugaru (tàu rải mìn Nhật)|''Tsugaru'']], các tàu khu trục [[Asanagi (tàu khu trục Nhật)|''Asanagi'']] và [[Yūnagi (tàu khu trục Nhật) (1924)|''Yūnagi'']] cùng [[tàu chở thủy phi cơ]] [[Kiyokawa Maru (tàu chở thủy phi cơ Nhật)|''Kiyokawa Maru'']]. Quan trọng hơn, cuộc tấn công đã làm trì hoãn thời gian biểu của quân Nhật để chinh phục quần đảo Solomon, buộc họ phải gửi những tàu sân bay đến bảo vệ cho các chiến dịch tiếp theo. Sự trì hoãn cũng cho Hải quân Hoa Kỳ có được thời gian bố trí lực lượng, cộng với việc tham chiến của các tàu sân bay Nhật, đã dẫn đến việc [[trận chiến biển Coral|đối đầu]] tại [[biển San Hô|biển Coral]].
 
=== Trận chiến biển Coral ===
''Astoria'' tái gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 17 vào ngày [[14 tháng 3]] và tuần tra tại vùng biển Coral cho đến hết [[tháng ba|tháng 3]]. Do ở liên tục ngoài biển kể từ ngày [[16 tháng 2]], dự trữ tiếp liệu của ''Astoria'' đã rất thấp, nên Chuẩn Đô đốc Fletcher cho tách nó ra để được nhận tiếp liệu từ tàu tiếp tế [[USS Bridge (AF-1)|''Bridge'']] tại Nouméa cùng với [[USS Portland (CA-33)|'' Portland '']], ''Hughes'' và ''Walke''. Đến nơi vào ngày [[1 tháng 4]], chiếc tàu tuần dương lại phải ra khơi ngay ngày hôm sau. Nó tiếp tục tuần tra tại vùng biển Coral trong hai tuần trước khi Lực lượng Đặc nhiệm 17 hướng đến [[Tongatapu]], nơi nó cùng với lực lượng của ''Yorktown'' trải qua tuần lễ từ ngày [[20 tháng 4|20]] đến ngày [[27 tháng 4]].
 
Vào khoảng thời gian này, các báo cáo [[tình báo]] đã thuyết phục được Đô đốc [[Chester Nimitz]] rằng đối phương đang dự định chiếm cảng Moresby, trên bờ biển Đông Nam của [[New Guinea]], và ông quyết tâm ngăn trở âm mưu này. Ông gửi Lực lượng Đặc nhiệm 11, được hình thành chung quanh tàu sân bay ''Lexington'' vừa được tân trang, và được dẫn đầu bởi một chỉ huy mới, Chuẩn Đô đốc [[Aubrey W. Fitch]], để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 17 của Fletcher. ''Astoria'' trở ra khơi cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 17 vào ngày [[27 tháng 4]] để gặp gỡ Lực lượng Đặc nhiệm 11. Hai lực lượng gặp nhau tại phía Đông khu vực biển Coral sáng ngày [[1 tháng 5]].
Dòng 104:
''Astoria'' chỉ ở lại Trân Châu Cảng cho đến ngày [[30 tháng 5]], khi nó trở ra khơi cùng với ''Yorktown'' vừa được sửa chữa hối hả nhằm chuẩn bị một đòn tấn công lớn khác của hạm đội Nhật Bản, lần này nhắm vào Midway. Các chuyến bay trinh sát thực hiện từ hòn đảo đã phát hiện ra lực lượng đổ bộ chính của đối phương, bao gồm tàu vận tải, tàu quét mìn và hai tàu chở thủy phi cơ, vào sáng sớm ngày [[3 tháng 6]], nhưng lực lượng tàu sân bay đối phương đã tránh không bị phát hiện cho đến sáng ngày [[4 tháng 6]]. Chiếc tàu tuần dương hạng nặng đã bảo vệ cho ''Yorktown'' khi chiếc tàu sân bay bắt đầu các đợt không kích lúc 08 giờ 40 phút. Trong khi máy bay cất cánh góp phần vào việc tiêu diệt lực lượng tàu sân bay Nhật Bản, ''Astoria'' và các tàu cùng đi chuẩn bị đối phó với đòn đáp trả không thể tránh khỏi của quân Nhật.
 
Đòn phản công chỉ đến vào lúc gần giữa trưa, khi các phi công chiến thắng của ''Yorktown'' bắt đầu quay trở về tàu. 18 máy bay ném bom bổ nhào [[Aichi D3A|Aichi D3A1]] "Val" đã bay đến tấn công chiếc tàu sân bay. [[Máy bay tiêm kích]] [[Grumman F4F Wildcat|F4F-4 Wildcat]] thuộc Phi đội Tiêm kích VF-3 đã bắn rơi 10 trong số những kẻ tấn công, nhưng tám chiếc còn lại đã tìm cách vượt qua được hàng rào [[tuần tra chiến đấu trên không]]. ''Astoria'' hợp sức với ''Portland'' và các tàu khu trục hộ tống bắn rơi thêm được hai chiếc, nhưng sáu chiếc đã tấn công nhắm vào ''Yorktown'', và ba chiếc đã trúng đích. Một trong các quả bom đánh trúng ống khói con tàu, gây ra các đám cháy ngay cạnh phòng chỉ huy hạm đội của Chuẩn Đô đốc Fletcher và ban tham mưu của mình. Đến khoảng 13 giờ 10 phút, ông buộc phải chuyển cờ hiệu của mình sang ''Astoria''.
 
Các đội kiểm soát hư hỏng của ''Yorktown'' đã làm việc cật lực, và đến 13 giờ 40 phút nó lại có thể di chuyển được bằng chính động lực của mình, cho dù chỉ với vận tốc {{convert|18|to|20|kn|km/h|abbr=on}}. Vào lúc khoảng 14 giờ 30 phút, một đợt tấn công thứ hai, bao gồm 10 chiếc máy bay ném bom-ngư lôi [[Nakajima B5N|Nakajima B5N2]] "Kate" được hộ tống bởi sáu máy bay tiêm kích [[Mitsubishi A6M Zero|Zero]], xông đến và băng qua hàng rào tuần tra chiến đấu trên không yếu kém. ''Astoria'' và các tàu hộ tống khác tìm cách ngăn chặn cuộc tấn công từ bốn phía khác nhau khi hướng mọi nòng súng nhắm vào chúng và tạo nên những cột nước trên đường bay của kẻ tấn công. Dù sao, bốn chiếc "Kate" thực hiện được cú tấn công và phóng các quả ngư lôi ở khoảng cách chỉ có {{convert|500|yd|m|abbr=on}}. ''Yorktown'' né tránh được hai, nhưng hai quả khác lại đánh trúng con tàu. Đến 15 giờ 00, lệnh bỏ tàu được phát ra. ''Astoria'' thả các xuồng cứu sinh để trợ giúp vào việc cứu những người còn lại của ''Yorktown''. Đêm hôm đó, chiếc tàu tuần dương rút lui về phía Đông cùng với phần còn lại của hạm đội để chờ trời sáng, để lại một chiếc tàu khu trục duy nhất, ''Hughes'', bên cạnh chiếc tàu sân bay hư hỏng.
 
Ngày hôm sau, ''Yorktown'' vẫn còn nổi, nên bắt đầu có những nỗ lực để cứu con tàu. Mặc dù lực lượng Nhật Bản đã từ bỏ cuộc tấn công Midway và rút lui về hướng chính quốc, tàu ngầm [[I-168 (tàu ngầm Nhật)|''I-168'']] vẫn được lệnh đánh chìm ''Yorktown''. Sau 24 giờ tìm kiếm, tàu ngầm đối phương tìm thấy con mồi vào ngày [[6 tháng 6]] và đã tấn công bằng một loạt bốn quả ngư lôi. Một quả trượt hoàn toàn, hai quả sượt qua bên dưới tàu khu trục ''Hammann'' đang neo đậu cạnh chiếc tàu sân bay và phát nổ bên lườn của ''Yorktown'', trong khi quả thứ tư đánh trúng ''Hammann'' ngay giữa tàu, khiến nó chìm chỉ trong vòng bốn phút. Chiếc tàu sân bay vẫn tiếp tục nổi cho đến sáng sớm ngày [[7 tháng 6]]. Lúc gần bình minh, nó lật úp và chìm.
Dòng 113:
 
=== Trận chiến đảo Savo ===
Vào đầu [[tháng tám|tháng 8]], ''Astoria'' được phân về Đội Đặc nhiệm 62.3 thuộc nhóm Hỗ trợ Hỏa lực L để bảo vệ cho các cuộc đổ bộ lên [[Guadalcanal]] và [[Tulagi]]. Sáng sớm ngày [[7 tháng 8]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng đi vào vùng biển giữa Guadalcanal và [[đảo Florida]] về phía Nam quần đảo [[Solomon]]. Suốt ngày hôm đó, nó hỗ trợ cho lực lượng Thủy quân Lục chiến khi họ đổ bộ lên Guadalcanal và nhiều đảo nhỏ khác lân cận. Quân Nhật tung ra một cuộc không kích phản công trong các ngày [[7 tháng 8|7]]-[[8 tháng 8]], và ''Astoria'' đã giúp vào việc phòng thủ các tàu vận tải chống trả các cuộc tấn công.
 
Trong đêm [[8 tháng 8|8]]-[[9 tháng 8]], một lực lượng hải quân Nhật Bản bao gồm bảy tàu tuần dương và một tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Gunichi Mikawa]] đã lẻn đến [[đảo Savo]] và tấn công các tàu chiến Mỹ. Vào lúc đó, ''Astoria'' đang tuần tra về phía Đông đảo Savo trong đội hình hàng dọc phía sau [[USS Vincennes (CA-44)|''Vincennes'']] và [[USS Quincy (CA-39)|''Quincy'']]. Lực lượng Nhật Bản vượt qua eo biển về phía Tây đảo Savo và trước tiên nổ súng vào lực lượng ''Chicago'' - [[HMAS Canberra (D33)|HMAS ''Canberra'']] vào khoảng 01 giờ 40 phút sáng ngày [[9 tháng 8]], bắn trúng cả hai chiếc tàu tuần dương bằng ngư lôi và đạn pháo. Sau đó, một cách tình cờ, họ tách ra thành hai nhóm và chuyển hướng chung lên phía Đông Bắc, vượt ngang cả hai bên ''Astoria'' và hai tàu cùng đi. Tàu tuần dương đối phương nổ súng vào lực lượng vào lúc khoảng 01 giờ 50 phút, và chiếc tàu tuần dương hạng nặng lập tức bắn trả. Nó ngừng bắn một lúc ngắn vì vị chỉ huy của nó tạm thời tưởng nhầm lực lượng Nhật Bản là tàu bạn, rồi lại tiếp tục bắn trả. ''Astoria'' không bị trúng phát nào trong bốn loạt đạn đầu tiên của Nhật, nhưng loạt thứ năm bắn trúng cấu trúc thượng tầng ở giữa tàu. Tiếp nối nhanh chóng, đạn pháo đối phương đã loại khỏi vòng chiến đấu [[tháp pháo]] số 1 và làm bùng phát một đám cháy nghiêm trọng trong hầm chứa máy bay khiến nó cháy sáng rực, trở thành một mục tiêu được chiếu sáng rõ ràng cho đối phương.