Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Monterey (CVL-26)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 8 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q2033076 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 32:
|Ship honors=11 [[Ngôi sao Chiến đấu]]
|Ship captured=
|Ship fate= Bị bán để tháo dỡ [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1971]]
|Ship status=
}}
{{Infobox ship characteristics
|Ship class= [[Independence (lớp tàu sân bay)|Lớp tàu sân bay Independence]]
|Ship displacement= 10.662 tấn (tiêu chuẩn); <br />14.751 tấn (đầy tải)
|Ship length= 183 m (600 ft) (mực nước); <br />190 m (622 ft 6 in) (chung)
Dòng 57:
|}
 
'''USS ''Monterey'' (CVL-26)''' là một [[tàu sân bay]] hạng nhẹ thuộc [[Independence (lớp tàu sân bay)|lớp ''Independence'']] của [[Hải quân Hoa Kỳ]] được đưa ra hoạt động trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]]. Sang giai đoạn [[Chiến tranh Triều Tiên]], nó được sử dụng để huấn luyện trong nhiều năm trước khi được cho ngưng hoạt động vào năm [[1956]] và bị tháo dỡ vào năm [[1971]].
 
==Thiết kế và chế tạo==
Dòng 65:
===Thế Chiến II===
[[Tập tin:USS Monterey.jpg|nhỏ|trái|300px|Chiếc USS ''Monterey'' vào năm 1944]]
''Monterey'' được xếp lại lớp với ký hiệu '''CVL-26''' vào ngày [[15 tháng 7]] năm [[1943]], không lâu sau khi được đưa vào hoạt động, và sau chuyến đi chạy thử máy, đã rời [[Philadelphia]] hướng sang Thái Bình Dương. Nó đi đến [[quần đảo Gilbert]] vào ngày [[19 tháng 11]] năm [[1943]], vừa kịp lúc để giúp cũng cố [[đảo Makin]]. Chiếc tàu sân bay, trong thành phần của Đội đặc nhiệm 37.2, tham gia đợt không kích lên [[Kavieng]], [[New Ireland]] vào ngày [[25 tháng 12]] và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên [[Kwajalein]] và [[Eniwetok]] cho đến ngày [[8 tháng 2]] năm [[1944]]. Sau đó ''Monterey'' hoạt động cùng lực lượng tàu sân bay nhanh của Lực lượng Đặc nhiệm 58 trong các cuộc không kích lên [[quần đảo Caroline]], [[quần đảo Mariana]], bắc [[New Guinea]] và [[quần đảo Ogasawara|quần đảo Bonin]] từ [[tháng hai|tháng 2]] đến [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[1944]]. Trong thời gian này chiếc t̀au sân bay đã tham gia [[Trận chiến biển Philippines|Trận chiến biển Philippine]] vào các ngày [[29 tháng 4|29]] và [[30 tháng 4]] năm [[1944]].
 
Sau đó ''Monterey'' quay về [[Trân Châu Cảng]] để đại tu, rồi lại khởi hành vào ngày [[29 tháng 8]] năm [[1944]]. Nó tung ra các cuộc không kích lên [[đảo Wake]] vào ngày [[3 tháng 9]], rồi gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 38 để tham gia các cuộc tấn công lên phần phía Nam của Philippine và quần đảo [[Ryukyus]]. Từ [[tháng mười|tháng 10]] đến [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1944]], nó ở lại Philippine, thoạt tiên hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên đảo [[Leyte (đảo)|Leyte]], rồi sau đó là [[Mindoro]].
 
Cho dù máy bay đối phương không thể gây hư hại gì cho ''Monterey'', nó cũng bị hư hỏng sau đúng một năm phục vụ. Vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1944]], nó bị lọt ngay vào đường đi của [[Bão Cobra (1944)|cơn bão Cobra]], với sức gió lên đến trên 180&nbsp;km/h (100 knot). Vào lúc cao điểm của trận bão, vốn kéo dài đến hai ngày, nhiều máy bay bị giật đứt các dây neo cột và đâm vào nhau gây ra nhiều đám cháy trong sàn chứa máy bay. Trong trận bão, [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] tương lai [[Gerald Ford]], lúc đó là một [[Trung úy]] đang phục vụ trên con tàu, suýt bị cuốn rơi xuống biển. Sau đó, tình nguyện dẫn đầu một nhóm chữa cháy dưới hầm tàu, Ford và nhóm của ông đã chiến đấu dập lửa suốt đêm chống lại các đám cháy đang đe dọa con tàu.<ref Name="NYT">{{chú thích web | last=Drury | first=Robert | title=How Lieutenant Ford Saved His Ship|publisher=New York Times | date= 28 tháng 12 năm 2006 | url=http://www.nytimes.com/2006/12/28/opinion/28drury.html?ex=1324962000&en=18ce61fb552d665b&ei=5090&partner=rssuserland&emc=rss | accessdate=19 tháng 06 năm 2008}}</ref>
 
''Monterey'' quay về [[Bremerton, Washington]] để đại tu vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[1945]]. Sau đó nó lại gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58 và hỗ trợ cho các hoạt động tại [[Okinawa]] khi tung ra các đợt không kích xuống [[Nansei Shoto]] và [[Kyushu|Kyūshū]] từ ngày [[9 tháng 5]] đến ngày [[1 tháng 6]] năm [[1945]]. Sau đó chiếc tàu sân bay được phân về Lực lượng Đặc nhiệm 38 tham gia các đợt không kích cuối cùng xuống [[Đảo Honshu|Honshū]] và [[Hokkaidō]] từ ngày [[1 tháng 7]] đến ngày [[15 tháng 8]] năm [[1945]].
 
=== Sau chiến tranh ===
Sau khi chiến tranh kết thúc, ''Monterey'' rời vùng biển Nhật Bản vào ngày [[7 tháng 9]], nhận lên tàu các quân nhân hồi hương tại [[Tōkyō|Tokyo]] và quay về nhà, về đến [[Thành phố New York|New York]] ngày [[17 tháng 10]] năm [[1945]]. ''Monterey'' để lại sau lưng một chiến tích lẫy lừng, với năm tàu đối phương bị đánh chìm và gây hư hại cho nhiều tàu bè khác, phá hủy nhiều ngàn tấn tải trọng tàu Nhật, hàng trăm máy bay cùng các trung tâm công nghiệp sống còn của Nhật. Sau đó, nó tham gia [[Chiến dịch Magic Carpet (Thế Chiến II)|Chiến dịch "Magic Carpet"]], những chuyến đi hồi hương các quân nhân Hoa Kỳ chiến đấu tại Châu Âu giữa [[Napoli|Naples]] và Norfolk. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày [[11 tháng 2]] năm [[1947]], và được phân về [[Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương]] thuộc nhóm Philadelphia.
 
===Chiến tranh Triều Tiên và sau đó===
Với việc bùng nổ chiến sự khai mào cho cuộc [[Chiến tranh Triều Tiên]], ''Monterey'' được đưa ra hoạt động trở lại vào ngày [[15 tháng 9]] năm [[1950]]. Chiếc tàu sân bay rời Norfolk ngày [[3 tháng 1]] năm [[1951]] đi đến [[Pensacola, Florida]], nơi nó hoạt động trong bốn năm tiếp theo sau đó. Trực thuộc [[Bộ chỉ huy Huấn luyện hải quân]], ''Monterey'' tham gia huấn luyện cho hàng ngàn thành viên đội bay và phi công cho cả máy bay cánh cố định và máy bay trực thăng. Từ ngày [[1 tháng 10|1]] đến ngày [[11 tháng 10]] năm [[1954]], nó tham gia một chiến dịch cứu nạn lũ lụt tại [[Honduras]]. Chiếc tàu sân bay rời Pensacola ngày [[9 tháng 6]] năm [[1955]] để quay về hạm đội dự bị. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày [[16 tháng 1]] năm [[1956]]. Trong khi đang ở lực lượng dự bị tại [[Philadelphia]], nó được xếp lại lớp thành một tàu vận chuyển máy bay '''AVT-2''' vào ngày [[15 tháng 5]] năm [[1959]], và cuối cùng được bán để tháo dỡ vào [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1971]].
 
==Phần thưởng==
''Monterey'' được tặng thưởng 11 [[Ngôi sao Chiến đấu]] do thành tích hoạt động trong Thế Chiến II.
 
[[Tập tin:Gerald Ford playing basketball on USS Monterey 06-1944-Darkened Larger.jpg|phải|nhỏ|Các phi công hải quân đang chơi bóng rổ tại sàn thang nâng phía trước. Giữa năm 1944. Người đang nhảy lên bên trái là [[Gerald Ford|Gerald R. Ford]].]]
 
==Tham khảo==
Dòng 91:
*[http://www.history.navy.mil/photos/sh-usn/usnsh-m/cvl26.htm Hình ảnh của Hải quân Mỹ về USS ''Monterey'']
*[http://www.ninesisters.com/monterey.htm USS Monterey] at Nine Sisters Light Carrier Historical Documentary Project
*Hình ảnh và câu chuyện của [[Gerald Ford|Gerald R. Ford]] và đám cháy trên chiếc ''Monterey'' trong [[Bão Cobra (1944)|bão Cobra]] thời Thế chiến II. Hoạt động cứu nạn lũ lụt do cuồng phong tại [[Honduras]] năm 1954. [http://www.morristown.org/monterey.htm Monterey]
 
{{Lớp tàu sân bay Independence}}