Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Valencia CF”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 56 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q10333 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 10:
Chủ tịch CLB = {{Cờ|Tây Ban Nha}} [[Manuel Llorente]] |
Huấn luyện viên = {{Cờ|Tây Ban Nha}} [[Unai Emery]] |
Giải đấu đang tham dự = [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]] |
Mùa giải = [[2009]]-[[2010]] |
vị trí = [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]], thứ 3 |
|pattern_la1 = _thinblackborder
|pattern_b1 = _valencia1112h
Dòng 45:
}}
 
'''Valencia Club de Fútbol''' (còn được gọi ngắn gọn là '''Valencia''' hay '''Valencia CF''') là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của [[Tây Ban Nha]], thuộc thành phố [[Valencia]], [[Tây Ban Nha]]. Hiện câu lạc bộ đang thi đấu tại [[giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha]] ([[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]]) và là một trong những câu lạc bộ bóng đá giàu thành tích nhất Tây Ban Nha. Valencia CF đã giành được 6 chức vô địch [[Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha|La Liga]], 7 [[cúp Nhà vua Tây Ban Nha]], 3 [[cúp UEFA Europa League|cúp UEFA]], 1 [[cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu|cúp C2]] và 2 [[Siêu cúp bóng đá châu Âu]]. Họ đã từng vào đến trận chung kết [[cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|cúp C1]] 2 lần liên tiếp vào các năm 2000 và 2001.
 
Được thành lập vào năm 1919, Valencia CF lấy sân [[Sân vận động Mestalla|Estadio Mestalla]] làm sân nhà từ năm 1923. Với 55.000 chỗ ngồi, Mestalla là sân vận động lớn thứ 5 ở Tây Ban Nha.
Dòng 57:
 
=== Thành công đầu tiên ===
Cuộc [[nội chiến Tây Ban Nha]] (1936-1939) đã ngăn cản bước tiến của Valencia. Phải cho tới năm [[1941]], đội bóng mới giành được danh hiệu đầu tiên là chức vô địch cúp Nhà vua sau khi đánh bại [[R.C.D. Espanyol de Barcelona|RCD Espanyol]] trong trận chung kết. Trong mùa giải 1941-1942, Valencia CF đã giành chức vô địch Tây Ban Nha lần đầu tiên. Mặc dù khi đó chiến thắng ở cúp Nhà vua danh tiếng hơn La Liga nhưng câu lạc bộ vẫn giữ vững sự ổn định để giành thêm chức vô địch La Liga vào các mùa giải 1943-1944, cũng như 1946-1947.
 
Trong thập niên 50, Valencia thất bại trong việc đạt được những danh hiệu lớn như thập niên trước. Mặc dù câu lạc bộ vẫn tiếp tục trưởng thành. Sự cơ cấu lại câu lạc bộ dẫn đến việc sân vận động Mestalla được mở rộng thành 45.000 chỗ ngồi. Trong đội hình của câu lạc bộ khi đó cũng có một số ngôi sao người Tây Ban Nha và người nước ngoài. Nổi bật trong đó là cầu thủ quốc tế người Tây Ban Nha [[Antonio Puchades]] và tiền đạo người Hà Lan [[Faas Wilkes]]. Trong mùa giải 1952-1953, Valencia CF kết thúc ở vị trí thứ 2 tại La Liga, và ở mùa giải tiếp theo câu lạc bộ giành chiến thắng ở Cup nhà vua.
 
=== Thành công ở châu Âu ===
Ở những năm đầu thập niên 60, trong khi thi đấu khá xoàng xĩnh tại giải trong nước trong nước, thì Valencia CF lại giành được [[cúp UEFA Europa League|cúp UEFA]]. Trong mùa giải 1961-1962, Valencia đánh bại một đội bóng khác của Tây Ban Nha là [[F.C. Barcelona|FC Barcelona]] trong trận chung kết với tổng tỉ số sau 2 lượt trận đi và về là 7-3. Ở mùa giải tiếp theo 1962-1963, Valencia gặp một đội bóng của Croatia là Dinamo Zagreb, và họ lại giành chiến thắng với tổng tỉ số 4-1. Valencia lần thứ 3 liên tiếp có mặt trong trận chung kết cúp C2 ở mùa giải 1963-1964, nhưng lần này họ đã bị đánh bại bởi đội bóng đồng hương là [[Real Zaragoza]] với tỉ số 1-2.
 
Cựu cầu thủ từng 2 lần giành danh hiệu [[quả bóng vàng Châu Âu|quả bóng vàng châu Âu]] [[Alfredo Di Stéfano]] được đưa về làm huấn luyện trưởng của câu lạc bộ vào năm [[1970]], ngay lập ông thổi một luồng gió mới vào câu lạc bộ bằng chức vô địch Tây Ban Nha lần thứ 4. Danh hiệu này giúp Valencia lần đầu tiên được tham dự [[cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|cúp C1]], giải đấu dành cho những câu lạc bộ vô địch các giải quốc gia châu Âu. Valencia vào đến vòng 3 ở giải đấu này năm 1971-1972, trước khi thua đội đương kim vô địch [[Hungary]] là [[Újpest TE]]. Những cầu thủ nổi tiếng nhất của câu lạc bộ vào những năm 70 có thể kể đến tiền vệ người [[Áo]] [[Kurt Jara]], tiền đạo [[Johnny Rep]] của [[Hà Lan]] và đặc biệt là tiền đạo [[Mario Kempes]], người đã đoạt gianh hiệu vua phá lưới La Liga 2 mùa liên tiếp vào các năm 1976-1977 và 1977-1978. Valencia thêm một lần nữa giành được gianh hiệu cúp nhà vua vào mùa giải 1978-1979. Ở mùa giải sau đó 1979-1980 họ đoạt được chiếc [[cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu|cúp C2]] đầu tiên sau khi đánh bại một đội bóng [[Anh]] là [[Arsenal F.C.|Arsenal FC]] trong trận chung kết. Kempes chính là người có công đầu của Valencia trong thành công đó.
 
=== Xuống hạng và lên hạng ===
Năm 1982, câu lạc bộ chỉ định [[Miljan Miljanic]] là huấn luyện viên trưởng. Sau một mùa giải đáng thất vọng, Valencia đứng thứ 17 và phải đối mặt với khả năng xuống hạng khi giải đấu chỉ còn 7 vòng đấu nữa là kết thúc. [[Koldo Aguirre]] thay thế Miljanic làm huấn luyện viên trưởng, và Valencia đã may mắn đoạt được vừa đủ số điểm để trụ hạng năm đó. Trong 2 mùa giải tiếp theo 1983-1984 và 1984-1985, câu lạc bộ rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Cuối cùng Valencia CF đứng ở vị trí cuối bảng và xuống hạng khi mùa giải 1985-1986 kết thúc. Khi đó đội bóng tan nát vì những vấn đề nội bộ như việc không trả đủ lương cho cầu thủ và ban huấn luyện, cũng như tinh thần rệu rã của toàn đội. Valencia xuống hạng lần đầu tiên sau 55 năm chơi bóng ở giải đấu hàng đầu Tây Ban Nha.
 
[[Arturo Tuzón]] trở thành vị tân chủ tịch của câu lạc bộ, và ông đã giúp cho Valencia CF trở lại với La Liga. [[Alfredo Di Stéfano]] trở lại làm huấn luyện viên vào năm 1986, ngay ở mùa giải đó Valencia giành quyền lên hạng. Di Stéfano giữ chức huấn luyện viên đến mùa giải 1987-1988, mùa giải mà Valencia kết thúc ở vị trí thứ 14 ở La Liga. Tiền đạo người [[Bulgaria|Bulgari]] [[Luboslav Penev]] gia nhập câu lạc bộ vào năm [[1989]], với tham vọng giúp câu lạc bộ giành được vị trí vững chắc ở La Liga. [[Guus Hiddink]] được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng vào mùa giải 1991-1992, và câu lạc bộ kết thúc ở vị trí thứ 4 đồng thời vào đến vòng tứ kết của cúp nhà vua. Trong năm [[1992]], Valencia CF chính thức trở thành một công ti cổ phần thể thao, và giữ Hiddink là huấn luyện viên đến năm [[1993]].
 
Huấn luyện viên người Brazil [[Carlos Alberto Parreira]], ngay sau chức vô địch thế giới cùng đội tuyển [[Brasil]] ở [[Giải vô địch bóng đá thế giới 1994|World Cup 1994]], trở thành huấn luyện viên ở sân Mestalla vào năm [[1994]]. Parreira ngay lập tức ký hợp đồng với thủ môn của đội tuyển Tây Ban Nha [[Adoni Zubizarreta]] và tiền đạo người Nga [[Oleg Anatolyevich Salenko|Oleg Salenko]], cùng với [[Predrag Mijatovic]]. Nhưng những kết quả nghèo nàn của câu lạc bộ đã dẫn đến việc Parreira bị thay thế bởi huấn luyện viên [[José Manuel Rielo]]. Thế nhưng những thành công trước đây vẫn tiếp tục lảng tránh câu lạc bộ. Mặc dù được dẫn dắt bởi không ít các huấn luyện viên hàng đầu như [[Luis Aragonés]] hay [[Jorge Valdano]]; cũng như không ít các ngôi sao người nước ngoài như các tiền đạo người Brazil [[Romário]], hay [[Claudio López]] và [[Ariel Ortega]] từ [[Argentina]].
 
=== Trở lại đấu trường châu Âu ===
Huấn luyện viên người Italia [[Claudio Ranieri]] là người chấm dứt quãng thời gian 19 năm khát danh hiệu, bằng việc dẫn dắt câu lạc bộ giành chiến thắng ở cúp Nhà vua năm [[1999]]. Sau đó ông được thay thế bởi [[Héctor Cúper]], và ngay lập tức Valencia lọt vào trận chung kết cúp C1 đầu tiên trong mùa giải 1999-2000. Mặc dù vậy họ đã thua với tỉ số 0-3 trước kỳ phùng địch thủ [[Real Madrid C.F.|Real Madrid CF]]. Ở mùa giải sau Valencia lần thứ 2 liên tiếp lọt vào trận chung kết cúp C1, lần này họ lại để thua trước Bayern Munich sau loạt sút penalty đầy may rủi.
 
Héctor Cúper rời câu lạc bộ vào năm [[2001]], và [[Rafael Benítez]] được đưa lên làm huấn luyện viên trưởng. Ngay mùa giải đầu tiên của mình 2001-2002, Benítez đã dẫn dắt câu lạc bộ đến chức vô địch La Liga đầu tiên sau 31 năm. Hai mùa giải sau, Valencia đoạt cú đúp khi Benítez giúp câu lạc bộ giành chiến thắng thứ 2 ở La Liga trong 3 năm đồng thời vô địch cúp UEFA thứ 3 trong lịch sử của câu lạc bộ
Dòng 114:
* '''[[Tập tin:Coppacampioni.png|24px]] [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|Cúp C1]]: '''
** '''Vào chung kết:''' 2000, 2001
* '''[[Tập tin:Coppacoppe.png|24px]] [[Cúp các độicâu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu|Cúp C2]]: 1'''
** 1980
* '''[[Tập tin:UEFA - Inter-Cities Fairs Cup.svg|24px]] [[Cúp UEFA Europa League|Cúp UEFA/Cúp C3]]: 3'''