Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Formosa thuộc Tây Ban Nha”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 11 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q74049 Addbot
n clean up, replaced: {{cite web → {{chú thích web, {{reflist → {{Tham khảo using AWB
Dòng 65:
=== Thời kỳ thống trị suy vong ===
{{xem thêm|trận Kelung}}
Ban đầu, người Tây Ban Nha định liệu chiếm lĩnh Bắc Đài Loan để sau có thể loại bỏ mối uy hiếp từ người Hà Lan, song thế cục lại không như ý của họ. Dù rằng người Tây Ban Nha đã chiếm được Bắc Đài Loan, song người Hà Lan chỉ cần ngăn trở thương nhân ở vùng ven biển Trung Quốc thì vẫn có thể uy hiếp đến kinh tế của Manila. Và lại, hàng hóa vận chuyển từ Kelung có giá cả không cạnh tranh được với thương nhân người Hoa trực tiếp vận chuyển đến Manila.<ref> name="《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁198-200">《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁198-200</ref> Ngược lại, việc duy trì đội quân đồn trú tiêu tốn một lượng kinh phí lớn, họ cũng không thể khai thông mậu dịch với Trung Quốc và Nhật Bản. Từ năm 1630 trở đi, sản lượng bạc ở châu Mỹ giảm dần theo năm, lượng bạc đến Manila cũng vì thế mà giảm thiểu, Manila rơi vào [[suy thoái kinh tế]].<ref>《雞籠山與淡水洋》,頁287-295</ref> Hoạt động của người Tây Ban Nha tại Bắc Đài Loan gần như đều phải dựa vào hỗ trợ của Philippines, song bản thân Philippines cũng cần kinh phí để đối ứng và tiến hành chiến tranh với [[người Hồi giáo]], khiến người Tây Ban Nha ngày càng khó khăn.
 
Năm 1637, tổng đốc Philippines [[Sebastián Hurtado de Corcuera]] đã quyết định cắt giảm quân lực ở Bắc Đài Loan để giảm chi phí. Ông hạ lệnh phá bỏ thành Santo Domingo ở Tamsui, chỉ để lại quân đồn trú tại Kelung, các nhân lực vật tư khác đều đưa về Manila.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁203-205</ref> Kelung phòng bị rỗng không, cuỗi cùng dẫn đến sự thèm muốn của người Hà Lan. Năm 1641, người Hà Lan đến Kelung thám thính tình hình và tìm cơ hội tấn công. Lúc này, uy thế của người Hà Lan không còn được như trước, nhiều bộ lạc thổ dân đã chuyển sang phục tùng người Hà Lan. Tuy nhiên, người Hà Lan nhận thấy số lượng hỏa pháo của mình không đủ công phá pháo đài,<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁206</ref> sau khi khuyên hàng quân Tây Ban Nha thất bại, lại quay về Teyowan. Vào tháng 8 năm 1642, người Hà Lan quay trở lại Kelung với bốn tàu lớn, vài tàu nhỏ, và khoảng 369 lính người Hà Lan.<ref name=Andrade>{{cite book|last=Andrade|first=Tonio|title=How Taiwan Became Chinese: Dutch, Spanish and Han Colonization in the Seventeenth Century|publisher=Columbia University Press|year=2005|url=http://www.gutenberg-e.org/andrade/}}</ref> Một liên quân bao gồm người Tây Ban Nha, thổ dân và [[người Kapampangan|người Pampangos]] đến từ Philippines đã chiến đấu trong sáu ngày, song cuối cùng họ đã thất bại và phải trở về [[Manila]], và bỏ hiệu kỳ cùng pháo của họ lại.<ref name="Andrade"/> [[Sebastián Hurtado de Corcuera]], thống đốc Philippines, ban đầu bị đổ trách nhiệm về việc để mất Formosa và cuối cùng đã được xét xử tại một toàn án về các hành động của ông,<ref name="Spaniards-Taiwan">{{citechú thích web |url=http://homepage.ntu.edu.tw/~borao/2Profesores/Paper%20Macao%20Overview.pdf |title=An Overview of the Spaniards in Taiwan |accessdate=2012-05-16 |publisher=University of Taiwan |work=University of Taiwan Foreign Languages in Literature |author=Jose Eugenio Barrio |format=pdf |year=2007}}</ref> và đã bị bỏ tù 5 năm tại Philippines. Các sử gia từ thời Corcuera đã đổ tội cho ông về việc để mất,<ref name="Andrade"/> song các nhân tố khác, như việc đế quốc Hà Lan nổi lên tại Đông Nam Á, và khó khăn tài chính bên trong đế quốc Tây Ban Nha, cũng là những nhân tố góp phần vào thất bại này.
 
== Kinh tế ==
Từ trước khi người Tây Ban Nha thống trị, thổ dân Bắc Đài Loan đã xuất bán [[vàng]], [[lưu huỳnh]], da hươu cho thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản. Phương thức giao dịch chủ yếu là hàng đổi hàng, ngoài ra họ cũng dùng ngọc trai, bạc, vải làm phương tiện.<ref> name="《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁198-200<"/ref> Vàng vốn được khai thác từ [[dãy núi Hải Ngạn]] ở Đông Đài Loan, thổ dân cư trú ở nơi đó tiến hành đãi trên hạ du các sông suối để tìm vàng sa khoáng, qua nhiều lần giao dịch mà được đưa đến Bắc Đài Loan,<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁166</ref> song sản lượng không đủ để cung ứng với số lượng lớn. Lưu huỳnh là mặt hàng [[xuất khẩu]] lớn nhất, nơi khai thác được nhiều là Ki-pataw, Ki-taparri, các thương nhân Trung Quốc chủ yếu vì thu mua lưu huỳnh mà đến. Thổ dân tiến hành khai thác khoáng sản từ tháng 9 đến tháng 12, do mức giá lưu huỳnh tại Trung Quốc thường biến động, thương nhân người Hán không định kỳ đến thu mua.<ref>《雞籠山與淡水洋》,頁251-253</ref>
 
Sau khi người Tây Ban Nha áp đặt quyền thống trị, vật tư để đáp ứng nhu cầu cho quân đồn trú cũng như bạc để dùng trong mậu dịch đều phải vận chuyển từ Manila đến, cung cấp chế độ huyết mạch kinh tế cho Bắc Đài Loan.<ref>《雞籠山與淡水洋》,頁209</ref> Hầu hết mỗi năm, Manila sẽ hai lần phái thuyền đến bổ cấp, một lần vào tháng 8, lần còn lại cách lần một khoảng 5 tháng, đem bạc từ châu Mỹ đến Kelung, mua tơ lụa, vải của thương nhân Hán, rồi lại đem thương phẩm đến Manila để bán. Mặc dù người Tây Ban Nha không được phép triển khai mậu dịch chính thức với [[nhà Minh|Đại Minh]], song họ đã chọn phương thức miễn thuế quan, miễn thuế hàng hóa, thậm chí miễn kiểm tra nhập quan để khuyến khích những người buôn lậu đến Kelung kinh doanh.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁172</ref> Người Tây Ban Nha cũng cố gắng thu hút thương nhân Nhật Bản, mục đích là để phát triển Kelung thành cảng trung chuyển mậu dịch với Trung Quốc và Nhật Bản, song khi [[Mạc phủ Tokugawa]] ban hành lệnh [[Sakoku|tỏa quốc]], kỳ vọng này của người Tây Ban Nha đã tiêu tan.
Dòng 81:
Ban đầu, chỉ có quân nhân là có thể tiến vào thôn xóm của thổ dân, không có các chức sắc tôn giáo hoạt động trong các thôn xóm này, đến khi linh mục Jacinto Esquivel đến Đài Loan, họ mới được phép vào thôn xóm truyền giáo. Để tiện cho việc truyền giáo, Jacinto Esquivel đã biên tập ra "Từ vựng tiếng Tamsui" (Vocabularino de la lengua de los Indios Tanchui en la Isla Hermosa) cùng "sách giáo lý tiếng Tamsui" (Doctrina cristiana en la lengua de los Indios Tanchui en la Isla Hermosa), song hai cuốn sách đến nay vẫn thất lạc.<ref>中村孝志原著,賴永祥譯, [http://www.laijohn.com/works/work7-5.pdf 〈十七世紀西班牙人在臺灣的佈教〉],頁125</ref> Để bồi dưỡng và nuôi các giáo sĩ truyền giáo, với sự hỗ trợ của Juan de Alcarazo, Jacinto Esquivel đã thành lập Thánh Từ bi Huynh đệ hội (Hermandad de la Misericordia), chức hội trưởng đều do trưởng quan đảm nhiệm;<ref>《西班牙人在臺灣》,頁79-80</ref> Ông cũng dự tính thành lập [[chủng viện (Công giáo)|chủng viện]], song cuối cùng đã không thực hiện được.
 
Ban đầu, phạm vi truyền giáo của người Tây Ban Nha chỉ giới hạn ở các bộ lạc phụ cận các pháo đài Tamsui và Kelung, sau khi người Tây Ban Nha khuếch trương thế lực, các giáo sĩ truyền giáo bắt đầu di chuyển đến trung du và thượng du [[sông Đạm Thủy|sông Tamsui]] và Nghi Lan ngày nay, thậm chí còn không dùng binh sĩ đi cùng, có thể an toàn làm lễ [[Thanh Tẩy]] ở vùng đất của các bộ lạc thổ dân.<ref> Tonio Andrade原著,鄭維中譯,《福爾摩沙如何變成臺灣府》,臺北:遠流,頁181-182</ref> Song tình cảnh thuận lợi này đã không thể kéo dài, theo sau việc quân Tây Ban Nha triệt thoái đáng kể khỏi Bắc Đài Loan, các giáo sĩ truyền giáo không còn có khả năng đi xa khỏi pháo đài để phục vụ cho việc truyền giáo.
 
Về cơ bản, trên cơ sở cân nhắc an toàn của bộ lạc, thổ dân sẵn sàng tiếp nhận Công giáo. Nếu có giáo sĩ truyền giáo trong thôn xóm thì các binh sĩ Tây Ban Nha rõ ràng sẽ không đến quấy nhiễu họ, họ cũng có thể hợp lực với người Tây Ban Nha đối kháng với bộ lạc đối địch.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁176-177</ref> Tuy nhiên, do tư tưởng thù nghịch giữa các bộ lạc có bất đồng, đã gây cản trở cho việc truyền giáo tiến triển. Chỉ cần giáo sĩ truyền giáo đến chỗ bộ lạc đối địch, họ sẽ tạo ra sự thù địch, thành quả lập tức biến mất, thậm chí có giáo sĩ truyền giáo còn bị sát hại.<ref>《西班牙人在臺灣》,頁84、《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁176-177</ref> Mặc dù có không ít giáo sĩ truyền giáo đến Đài Loan, song họ nhận định rằng nhiệm vụ chính là đến Trung Quốc và Nhật Bản truyền giáo, còn Đài Loan chỉ như một bàn đạp để đi vào hai nơi này.<ref>《西班牙人在臺灣》,頁90</ref> Vì vậy, thời gian lưu lại trên đảo của các giáo sĩ không dài, khó mà đạt được thành quả đáng kể.
Dòng 96:
 
== Tham khảo ==
{{reflistTham khảo|2}}
 
[[Thể loại:Cựu thuộc địa của Tây Ban Nha]]