Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vympel K-13”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 16 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q840424 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 12:
==Phát triển==
[[Tập tin:406px-AA-2 seeker.jpg|nhỏ|200px|Hệ thống dẫn đường]]
K-13 (được biết như '''R-3S''' trong trang bị của [[Liên Xô]]) được phát triển từ năm [[1958]], được trang bị vào năm [[1960]]. Nó được phát triển dựa trên loại [[AIM-9 Sidewinder]] của [[Hoa Kỳ|Mỹ]]. Theo một số bản kê khai, nó được hoàn thiện sau phiên bản AIM-9B, thu được trên một chiếc [[North American F-86 Sabre|F-86 Sabre]] của [[Đài Loan]], bị thua một chiếc [[Mikoyan-Gurevich MiG-17|MiG-17]] của [[Trung Quốc]] trong những cuộc đụng độ lẻ tẻ diễn ra trên không trong [[28 tháng 9]]-[[1958]]. Đây được coi như một mẫu thí nghiệm cung cấp một sự hiểu biết đáng kể cho các kỹ sư [[Liên Xô]] trong thiết kế những tên lửa dẫn đường IR dễ sử dụng.
 
R-3S được nhìn thấy bởi Phương Tây vào năm [[1961]] và có [[tên ký hiệu của NATO]] là '''AA-2A 'Atoll''''. Nó được sử dụng sau '''R-3''', một phiên bản tên lửa dẫn đường radar bán chủ động (SARH), giống như [[hải quân Hoa Kỳ]] sử dụng AIM-9C Sidewinder (được mang trên [[Vought F-8 Crusader|F-8 Crusader]]). Nó có tên ký hiệu của NATO là '''AA-2B'''. Phiên bản nâng cấp, với tên gọi '''K-13M (R-13M)''' cho IRH và '''K-13R (R-3R)''' cho phiên bản SARH, được phát triển vào cuối những năm 1960. Nó được mang tên '''Advanced Atoll''' ('''AA-2C''' và '''AA-2D''', cho riêng từng loại tương ứng). R-13M tương đương với loại tên lửa cải tiến AIM-9G Sidewinder của [[Không quân Hoa Kỳ|Không quân Mỹ]], với kíp nổ mới, phạm vi xa hơn, khả năng tác chiến tốt hơn, và một thiết bị tìm kiếm làm mát bằng [[nitơ]] rất nhạy cảm.
 
Một sự huấn luyện trì trệ xung quanh '''R-3P''', cũng được phát triển (P = ''prakticheskaya'', cho thực hành).