Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Văn học Mỹ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 35 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q233762 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 2:
 
== Tổng quan ==
Suốt lịch sử đầu, Mỹ là một tập hợp các thuộc địa của [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] bên duyên hải phía đông của [[Hoa Kỳ]] ngày nay. Vì thế, truyền thống [[văn học]] của Mỹ khởi đầu có sự liên hệ tới truyền thống bề rộng hơn của [[Văn học Anh]]. Tuy nhiên, các tính chất riêng Mỹ và bề rộng sáng tác của nó thường khiến cho nó được xem ngày nay có một truyền thống và hướng đi khác biệt.
 
== Văn học thời thuộc địa ==
Dòng 11:
Cũng có một số thi ca đã được sáng tác. [[Anne Bradstreet]] và [[Edward Taylor]] đặc biệt được chú ý. [[Michael Wigglesworth]] đã sáng tác một bài thơ bán chạy nhất là ''[[The Day of Doom]]'' diễn tả về ngày phán quyết. [[Nicholas Noyes]] cũng được biết đến với vần thơ tồi.
 
Những tác phẩm đầu diễn tả những cuộc xung đột và tương tác với [[người bản thổ Mỹ]] như được thấy trong các tác phẩm của [[Daniel Gookin]], [[Alexander Whitaker]], [[John Mason (c.1600-1672)|John Mason]], [[Benjamin Church]], và [[Mary Rowlandson]]. [[John Eliot (truyền giáo)|John Eliot]] đã dịch [[Kinh Thánh|Thánh kinh]] sang [[tiếng Algonquin]].
 
[[Jonathan Edwards]] và [[John Kerry]] đại diện cho [[Đại Tỉnh thức]], một phong trào làm sống lại đời sống tôn giáo trong đầu [[thế kỷ 18]]. Những nhà văn tôn giáo và Thanh giáo bao gồm [[Thomas Hooker]], [[Thomas Shepard]], [[Uriah Oakes]], [[John Wise (giáo sĩ)|John Wise]], và [[Samuel Willard]]. Các nhà văn ít nghiêm khắc hơn có [[Samuel Sewall]], [[Sarah Kemble Knight]], và [[William Byrd]].
Dòng 22:
[[Tập tin:James Fenimore Cooper by Jarvis.jpg|phải|nhỏ|Chân dung [[James Fenimore Cooper]] của [[John Wesley Jarvis]], 1822.]]
 
Thời hậu chiến, các bài tiểu luận chủ trương thành lập Liên bang của [[Alexander Hamilton]], [[James Madison]], và [[John Jay]] tiêu biểu trước cho một thảo luận lịch sử về việc tổ chức chính phủ và các giá trị [[cộng hòa|cộng hoà]]. [[Tuyên ngôn Độcđộc lập Hoa Kỳ|Bản Tuyên ngôn Độc lập]] của [[Thomas Jefferson]], ảnh hưởng của ông đối với bản [[Hiến pháp Hoa Kỳ|Hiến pháp]], tự truyện của ông, "[[Ghi chú về Tiểu bang Virginia]]", và vô số các lá thư của ông đã đưa ông trở thành một trong những nhà văn thiên tài nhất đầu tiên của Mỹ. [[Fisher Ames]], [[James Otis]], và [[Patrick Henry]] cũng đáng ngưởng mộ vì các tác phẩm và diễn văn chính trị của họ.
 
Tiểu thuyết Mỹ đầu tiên đôi khi được xem là tác phẩm [[The Power of Sympathy]] ([[1789]]) của [[Hill Brown]]. Phần nhiều văn học ban đầu của quốc gia mới đã gắng sức tìm kiếm một tiếng nói riêng biệt của người Mỹ. Những hình thức và phong cách [[châu Âu]] thường được truyền đến các địa phương mới và những nhà phê bình thường xem chúng như hạng thấp kém. Thí dụ, ''[[Wieland (tiểu thuyết)|Wieland]]'' và những [[tiểu thuyết]] khác của [[Charles Brockden Brown]] (1771-1810) thường được xem như là những mô phỏng theo [[tiểu thuyết Gothic]] mà lúc đó đang được sáng tác tại [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]].
 
== Phong cách độc nhất của Mỹ ==
Với cuộc [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh năm 1812]] và một ước muốn ngày gia tăng việc sáng tạo tác phẩm Mỹ độc nhất, một số khuôn mặt văn chương mới chính yếu đã xuất hiện, có lẽ nỗi bật nhất là [[Washington Irving]], [[William Cullen Bryant]], [[James Fenimore Cooper]], và [[Edgar Allan Poe]]. Irving, thường được xem là một nhà văn đầu tiên phát triển ra phong cách Mỹ độc nhất (mặc dù vấn đề này vẫn còn được bàn cãi) sáng tác các tác phẩm hài hước trong ''[[Salmagundi]]'' và văn trào phúng nỗi tiếng ''[[A History of New York, by Diedrich Knickerbocker]]'' (1809). Bryant sáng tác những vần thơ ngợi ca thiên nhiên và thơ lãng mạn đầu tiên mà thoát ly khỏi nguồn gốc châu Âu của nó. Năm 1832, Poe bắt đầu sáng tác những chuyện ngắn—bao gồm "[[The Masque of the Red Death]]," "[[The Pit and the Pendulum]]," "[[The Fall of the House of Usher]]," và "[[The Murders in the Rue Morgue]]"—khám phá những mức độ tiềm ẩm tâm lý con người và đẩy giới hạn của tiểu thuyết về phía [[tiểu thuyết bí ẩn]] và [[tiểu thuyết thần thoại]]. Những truyện [[Leatherstocking]] của Cooper về [[Natty Bumppo]] được ưa chuộng cả trong và ngoài nước.
 
Các nhà văn hài hước cũng được ưa chuộng và gồm có [[Seba Smith]] và [[Benjamin P. Shillaber]] tại [[New England|Tân Anh Cát Lợi]] và [[Davy Crockett]], [[Augustus Baldwin Longstreet]], [[Johnson J. Hooper]], [[Thomas Bangs Thorpe]], [[Joseph G. Baldwin]], và [[George Washington Harris]] viết về biên cương Mỹ.
 
[[Boston Brahmin|Brahmins của Tân Anh Cát Lợi]] là một nhóm nhà văn có liên hệ với [[Đại học Harvard]] và nơi hoạt động của nhóm là tại [[Cambridge, Massachusetts]]. Đầu đàn trong nhóm gồm có [[James Russell Lowell]], [[Henry Wadsworth Longfellow]], và [[Oliver Wendell Holmes, Sr.]]
Dòng 37:
Nhà tư tưởng đồng sự thiên tài nhất của Emerson có lẽ là [[Henry David Thoreau]] (1817-1862), một người cương quyết không theo lề thói. Sau khi sống phần nhiều một mình khoảng hai năm trong một căn chòi gần một cái ao trong rừng, Thoreau sáng tác ''[[Walden]]'', một hồi ký dài cả cuốn sách hối thúc mọi người kháng cự những mệnh lệnh từ xã hội có tổ chức gây quấy nhiễu cuộc sống riêng tư. Tác phẩm cấp tiến của ông diễn tả một chiều hướng cắm rễ sâu ngã về [[chủ nghĩa cá nhân]] trong đặc tính của người Mỹ. Những nhà văn khác bị ảnh hưởng bởi [[Thuyết tiên nghiệm]] là [[Bronson Alcott]], [[Margaret Fuller]], [[George Ripley]], [[Orestes Brownson]], và [[Jones Very]].
 
Cuộc xung đột quanh vấn đề [[Chủ nghĩa bãi nô|bãi bỏ chế độ nô lệ]] đã truyền cảm hứng cho các tác phẩm cuả [[William Lloyd Garrison]] và tờ báo của ông là ''[[The Liberator]]'' (người giải phóng) cùng với thi sĩ [[John Greenleaf Whittier]] và [[Harriet Beecher Stowe]] với bài thơ nỗi danh thế giới của bà là ''[[Túp lều bác Tôm|Uncle Tom's Cabin]]'' (Căn chòi của chú Tom).
 
Năm 1837, thanh niên [[Nathaniel Hawthorne]] (1804-1864) tập hợp được một số mẫu chuyện của mình trong ''[[Twice-Told Tales]]'' (những mẫu chuyện được kể hai lần) , một bộ truyện giàu tính chủ nghĩa biểu tượng và tình tiết huyền bí. Hawthorne tiếp tục sau đó sáng tác những tác phẩm lãng mạn dài, những tiểu thuyết nữa ngụ ngôn khám phá những đề tài như tội lỗi, tự hào, cảm xúc tại quê hương [[New England|Tân Anh Cát Lợi]] của ông. Kiệt tác của ông ''[[Chữ A màu đỏ|The Scarlet Letter]]'' là một vở kịch về một người phụ nữ bị tống khứ ra khỏi cộng đồng của mình vì mang tội ngoại tình.
 
Tiểu thuyết của Hawthorne có một mãnh lực lớn đối với bạn của ông là [[Herman Melville]] (1819-1891), người đầu tiên tự tạo ra tên tuổi bằng cách biến chi tiết từ những ngày đi biển thành những tiểu thuyết kỳ lạ. Cảm hứng bởi mẫu tượng Hawthorne, Melville sau đó tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết giàu ước đoán triết lý. Trong ''[[Moby Dick]]'', một chuyến đi săn cá voi đầy mạo hiểm trở thành phương tiện xem xét những đề tài như sự ám ảnh, thiên nhiên đầy tai ương, và sự tranh đấu của con người chống lại sức mạnh thiên nhiên. Trong một tác phẩm hay khác, tiểu thuyết ngắn ''[[Billy Budd (tiểu thuyết)|Billy Budd]]'', Melville kịch hóa những đòi hỏi mâu thuẩn về nhiệm vụ và lòng trắc ẩn trên một chiếc thuyền trong thời chiến. Những cuốn sách tinh tế thâm sâu hơn của ông bán không chạy, và ông đã bị lãng quên từ lâu cho đến khi mất. Ông được tái khám phá trong những thập niên đầu của thế kỷ 20.
Dòng 57:
 
== Sang tân thế kỷ ==
[[Tập tin:Hemingway on WWI.gif|nhỏ|190px|[[Ernest Hemingway]] trong quân phục [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Đệ nhất Thế chiến]].]]
 
Vào đầu thế kỷ 20, các tiểu thuyết gia Mỹ mở rộng khung cảnh xã hội của thể loại tiểu thuyết gồm cả đời sống thượng lưu và bần cùng và đôi khi có liên quan đến trường phái chủ nghĩa thiên nhiên hiện thực. Trong chuyện và tiểu thuyết của bà, [[Edith Wharton]] (1862-1937) đã nguyên cứu cẩn thận giới thượng lưu, xã hội duyên hải phía đông Hoa Kỳ nơi bà lớn lên. Một trong những cuốn sách hay của bà, ''[[The Age of Innocence]]'', xoay quanh chủ đề một người ông chọn lấy một người phụ nữ xã hội chấp nhận, bình thường hơn là một người phụ nữ quyến rũ khác thường. Cũng vào lúc đó, [[Stephen Crane]] (1871-1900), nỗi danh với tiểu thuyết thời nội chiến Hoa Kỳ của ông là ''[[The Red Badge of Courage]]'', đã diễn tả đời sống của những cô gái làng chơi ở [[Thành phố New York]] trong ''[[Maggie: A Girl of the Streets]]''. Và trong ''[[Sister Carrie]]'', [[Theodore Dreiser]] (1871-1945) đã diễn tả một cô gái miền quê di chuyển đến [[Chicago, Illinois|Chicago]] và trở thành một "gái bao". [[Hamlin Garland]] và [[Frank Norris]] viết về những vấn đề của những nông gia Mỹ và các vấn đề xã hội khác theo lối viết của người theo chủ nghĩa tự nhiên.
 
Những tác phẩm chính trị trực tiếp hơn có bàn thảo đến các vấn đề xã hội và quyền lực của những tập đoàn kinh doanh. Một vài người như [[Edward Bellamy]] trong ''[[Looking Backward]]'' phát thảo ra những khung sườn xã hội và chính trị có thể có khác. [[Upton Sinclair]], nỗi danh nhất với tiểu thuyết ''[[The Jungle]]'' của ông, đã tán thành [[chủ nghĩa xã hội]]. Những nhà văn chính trị khác của thời kỳ này gồm có [[Edwin Markham]], [[William Vaughn Moody]]. Những nhà phê bình báo chí, gồm có [[Ida M. Tarbell]] và [[Lincoln Steffens]] được dán cho biệt danh "The Muckrakers", có nghĩa là những nhà báo, tác giả, nhà làm phim đã điều tra và đưa ra ánh sáng những vấn đề xã hội như tham nhũng, tội phạm kinh tế, lao động trẻ con, những điều kiện làm việc mất vệ sinh trong các nhà máy sản xuất thực phẩm... Tự truyện văn chương của [[Henry Adams]], ''[[The Education of Henry Adams]]'' cũng miêu tả chi tiết gay rứt về hệ thống giáo dục và cuộc sống hiện đại.
Dòng 65:
Năm 1909, [[Gertrude Stein]] (1874-1946), vào lúc đó là một người Mỹ ở [[Paris]], đã xuất bản ''[[Three Lives]]'', một tác phẩm tiểu thuyết sáng tạo bị ảnh hưởng bởi sự quen thuộc của bà với hội họa, nhạc jazz và những phong trào nhạc và nghệ thuật đương đại khác. Stein gọi một nhóm nhà văn nỗi tiếng của Mỹ sống tại Paris và thập niên 1920 và 1930 là "[[Thế hệ bị lãng quên]]".
 
Thi sĩ [[Ezra Pound]] (1885-1972) sinh ra tại [[Idaho]] nhưng sống phần nhiều cuộc đời của ông tại [[châu Âu]]. Tác phẩm của ông phức tạp, đôi khi tối nghĩa, có nhiều liên quan đến những hình thức nghệ thuật khác và một tầm mức rộng lớn văn chương của cả Đông và Tây. Ông bị ảnh hưởng bởi nhiều thi sĩ khác, nỗi bật là [[T. S. Eliot]] (1888-1965) cũng là một người Mỹ sống ở nước ngoài. Eliot làm thơ giàu tưởng tượng hơn là cảm xúc được chuyển vận bằng một cấu trúc nhiều hình tượng. Trong "The Waste Land", ông biểu hiện một viễn ảnh đen tối về một xã hội hậu Đệ nhất Thế chiến bằng những hình ảnh bị mất từng đoạn và ma quái. Giống như Pound, thơ của Eliot có thể là quá nhiều hình tượng, và một số tái bản ''[[The Waste Land]]'' có đính kèm ghi chú của nhà thơ. Năm 1948, Eliot thắng [[Giải Nobel Văn học|Giải Nobel Văn chương]].
 
Những nhà văn Mỹ cũng diễn tả những mộng tưởng vỡ tan theo sau chiến tranh. Những chuyện và tiểu thuyết của [[F. Scott Fitzgerald]] (1896-1940) ghi lại tâm trạng bất phục, thèm khát thú vui, bồn chồn của [[thập niên 1920]]. Đề tài đặc biệt của Fitzgerald, được diễn tả thấm thía trong ''[[The Great Gatsby]]'', là chiều hướng của những giấc mơ vàng của tuổi trẻ bị tan vỡ trong thất bại và chán chường. [[Sinclair Lewis]] và [[Sherwood Anderson]] cũng viết tiểu thuyết phê phán cuộc sống Mỹ. [[John Dos Passos]] viết về chiến tranh và một bộ ba cuốn sách (mà [[tiếng Anh]] gọi là ''U.S.A. trilogy'') kéo dài cho đến thời [[Đại khủng hoảng]].
Dòng 71:
[[Tập tin:Francis Scott Fitzgerald 1937 June 4 (1) (photo by Carl van Vechten).jpg|nhỏ|trái|Hình [[F. Scott Fitzgerald]] do [[Carl van Vechten]] chụp năm 1937.]]
 
[[Ernest Hemingway]] (1899-1961) đã chứng kiến bạo động và cái chết lần đầu tiên khi làm tài xế xe cứu thương trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Đệ nhất Thế chiến]], và sự tàn phá của chiến tranh đã thuyết phục ông rằng ngôn ngữ trừu tượng hầu như trống rổng và lạc lối. Ông đã cắt bỏ những từ ngữ không cần thiết ra khỏi tác phẩm của ông, đơn giản hóa cấu trúc câu, và tập trung vào những hành động và đối tượng cụ thể. Ông bám chặt vào một qui tắc đạo lý đặt nặng sự thanh nhã dưới áp lực, và những nhân vật chính của ông thường là những người đàn ông trầm lặng, mạnh mẽ thường lúng túng với phụ nữ. ''[[The Sun Also Rises]]'' và ''[[Giã từ vũ khí|A Farewell to Arms]]'' thường được xem là những tiểu thuyết hay nhất của ông; năm 1954, ông đoạt được [[Giải Nobel Văn học|Giải Nobel Văn chương]].
 
Năm năm trước Hemingway, một tiểu thuyết gia Mỹ khác đã đoạt được Giải Nobel là [[William Faulkner]] (1897-1962). Faulkner tự mình xoay quanh một phạm vi to lớn của nhân sinh quan trong [[Quận Yoknapatawpha]], một quận thuộc [[Mississippi]] mà ông tự hư cấu nên. Ông ghi chép dường như không có mạch lạc và không có sửa đổi về những nhân vật của mình để tiêu biểu những trạng thái nội tâm của họ, đó là một kỹ thuật hành văn được gọi là ""tuông ra ý thức" (''stream of consciousness''). Sự thật thì kiểu hành văn như thế đã được luyện tập kỷ lưỡng, và cấu trúc dường như hổn độn của chúng giúp che đậy nhiều lớp ý nghĩa. Ông cũng làm xáo trộn thứ tự thời gian để cho thấy quá khứ tồn tại như thế nào trong hiện tại—đặc biệt là thời đại giữ nô lệ của vùng cực nam nước Mỹ (''Deep South''). Một số trong những đại tác phẩm của ông là ''[[The Sound and the Fury]]'', ''[[Absalom, Absalom!]]'', ''[[Go Down, Moses]]'', và ''[[The Unvanquished]]''.
 
Văn học thời [[Đại khủng hoảng]] thì thẳng thừng và trực tiếp trong việc phê phán xã hội của nó. [[John Steinbeck]] (1902-1968) sinh ra tại [[Salinas, California]] là nơi ông dùng làm khung cảnh cho những câu chuyện của mình. Phong cách của ông đơn giản và gợi ý giúp ông chiếm cảm tình của bạn đọc, nhưng đối với những nhà phê bình thì không được cái hân hạnh đó. Steinbeck thường viết về người nghèo, người lao động và sự vật lộn của họ để có được cuộc sống lương thiện và tươm tất; ông có lẽ là nhà văn nhận thức xã hội nhất trong thời đại của ông. ''[[Chùm nho uất hận|The Grapes of Wrath]]'', được xem là kiệt tác của ông, là một tiểu thuyết mạnh mẽ, có chiều hướng xã hội kể câu chuyện về gia đình nghèo của vợ chồng Joads từ Oklahoma và chuyến đi của họ đến [[California]] để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những tiểu thuyết được yêu chuộng khác gồm có ''[[Tortilla Flat]]'', ''[[Of Mice and Men]]'', ''[[Cannery Row (tiểu thuyết)|Cannery Row]]'', và ''[[East of Eden]]''. Ông được trao [[Giải Nobel Prize Văn chương]] năm 1962. Những nhà văn khác đôi khi được xem là phần tử của trường phái [[vô sản]] gồm có [[Nathanael West]], [[Fielding Burke]], [[Jack Conroy]], [[Tom Kromer]], [[Robert Cantwell]], [[Albert Halper]], và [[Edward Anderson]].
 
== Hậu Đệ nhị Thế chiến ==
[[Tập tin:Normanmailer.jpg|nhỏ|phải|Hình Norman Mailer do Carl Van Vechten chụp năm 1948]]
 
Thời kỳ từ cuối [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Đệ nhị Thế chiến]] cho đến khoảng cuối [[thập niên 1960]] và đầu [[thập niên 1970]] đã chứng kiến sự xuất bản một số các tác phẩm được yêu chuộng nhất trong lịch sử Mỹ. Một số còn lại, các tác phẩm hiện đại hiện thực hơn cùng với các tác phẩm thuộc thể loại [[Beatnik]] lãng mạn cuồng nhiệt gần như chiếm ưu thế thời kỳ này trong khi sự trực tiếp tham gia của Mỹ vào Đệ nhị Thế chiến cũng đã thêm vào ảnh hưởng đáng ghi nhận đối với các tác phẩm này.
 
Từ ''[[Nine Stories]]'' và ''[[Bắt trẻ đồng xanh|The Catcher in the Rye]]'' của [[J.D. Salinger]] đến ''[[The Bell Jar]]'' của [[Sylvia Plath]], sự điên cuồng của nước Mỹ được đặt ngay vào hàng đầu sự diễn đạt văn chương của quốc gia. Những nhà văn lưu vong như [[Vladimir Vladimirovich Nabokov|Vladimir Nabokov]] với tác phẩm ''[[Lolita]]'' đã vượt lên cùng với chủ đề, và, gần như cùng lúc đó, thể loại [[Beatnik]] đã bước một bước nhịp nhàng tránh xa khỏi bậc đàn anh của [[Thế hệ bị lãng quên]].
 
Thi ca và tiểu thuyết của "[[Thế hệ Beat]]" phần lớn phát sinh từ một nhóm trí thức được thành lập tại [[Thành phố New York]] quanh [[Đại học Columbia]] và được thành lập chính thức hơn một thời gian sau đó tại [[San Francisco]]. Thuật từ '''Beat''' ám chỉ, cùng lúc, đến nhịp điệu đối ngược văn hóa của nhạc Jazz, đến cảm giác nỗi loạn có liên quan đến trọng tâm bảo thủ của xã hội hậu chiến, và đến một sự chú tâm vào những hình thức mới về tinh thần qua ma túy, rượu, triết lý, và tôn giáo, và đặc biệt là qua [[Thiền tông]]. [[Allen Ginsberg]] đã xếp đặt phong thái của phong trào trong bài thơ của ông có tên là ''[[Howl]]'' mà bắt đầu như sao: "Tôi đã chứng kiến những trí tuệ lỗi lạc nhất thế hệ tôi bị hủy diệt bởi sự điên cuồng...." Cùng lúc đó, bạn thân của ông là [[Jack Kerouac]] (1922-1969) chúc mừng cách sống lang thang, không gò bó, vui tươi của thế hệ Beats trong nhiều tác phẩm, đặc biệt là kiệt tác và là tiểu thuyết nỗi tiếng nhất của ông có tựa đề ''[[On the Road]]''. Đặc biệt đối với tiểu thuyết chiến tranh, có một sự bùng nỗ văn chương tại Mỹ trong thời đại hậu [[Đệ nhị Thế chiến. Một số tác phẩm nỗi tiếng được sáng tác gồm có ''[[The Naked and the Dead]]'' (1948) của [[Norman Mailer]], ''[[Catch-22]]'' (1961) của [[Joseph Heller]] và ''[[Slaughterhouse-Five]]'' (1969) của [[Kurt Vonnegut Jr.]]. [[MacBird]] của nhà văn [[Barbara Garson]] là một tác phẩm nỗi tiếng khác vén mở sự ngớ ngẩn của chiến tranh.