Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương quốc Bosporos”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 29 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q321371 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 12:
''Xem thêm:[[các vị vua Cimmerian Bosporus]]''
 
Theo [[Diodorus Siculus]] (xii. 31) vùng đất này đã được cai quản bởi một dòng họ gọi là Archaeanactidae, có thể là một gia đình cầm quyền, những người đã đem dâng vùng đất này cho bạo chúa Spartocus(438 TCN - 431 TCN), rõ ràng là một người [[Thracia|Thrace]].Ông ta đã thành lập một triều đại mà đã tồn tại tới khoảng năm 110 TCN.Các Spartocids đã để lại nhiều bia khắc mà cho thấy các thành viên ban đầu của dòng họ cai trị như là một archons của các thành phố Hy Lạp và vua chúa của các bộ tộc bản địa.
[[Tập tin:Phiale de Tmutarakan.jpg|nhỏ|trái|250px|Bosporan [[phiale (libation vessel)|Phiale]] (top view), 4th century BC]]
 
[[Satyrus]] (431 TCN - 387 TCN), người kế thừa của Spartocus, đã thiết lập sự cai trị của mình trên toàn khu vực, thêm [[Nymphaeum]] vào lãnh địa của mình và tiến hành bao vây [[Theodosia]], mà đã là một đối thủ thương mại đối lập vì nó có một hải cảng không bao giờ bị đóng băng và gần với các cánh đồng lúa ở phía đông Crimea. Nó được dành riêng cho con trai ông Leucon (387 TCN - 347 TCN), người mà chiếm thành phố này. Ông được kế tục bởi hai người con trai đồng cai trị của ông, [[Spartocus II]], và [[Paerisades]]; người anh cả mất năm 342 và em trai của ông trị vì một mình cho đến năm 310. Sau đó, theo sau một cuộc nội chiến, trong đó Satyrus đánh bại Eumelus em trai của mình trong [[trận sông Thatis]] năm 310 trước Công nguyên nhưng sau đó bị giết để Eumelus lên ngôi.<ref>Armies of the Macedonian and Punic Wars, Duncan Head, p70</ref>
 
Người kế nhiệm ông là [[Spartocus III]] (303 TCN - 283 TCN) và sau ông là [[Paerisades II]]. Những hoàng tử kế vị lặp đi lặp lại tên trong gia đình. Chúng ta chỉ biết rằng thành viên cuối cùng của họ, Paerisades V, không thể thực hiện chống lại sức mạnh của người dân địa phương, năm 108 TCN ông gọi sự giúp đỡ của Diophantus, tướng của vua [[Mithridates VI của Pontos|Mithridates VI của Pontus]], hứa sẽ bàn giao vương quốc của mình cho ông hoàng này. Ông đã bị giết bởi một người Scythia tên là Saumacus mà đã lãnh đạo một cuộc nổi loạn chống lại ông.
 
Trong thế kỷ 1 trước Công nguyên, sau thất bại của mình trước tướng Pompey năm 63 trước Công nguyên, vua [[Mithridates VI của Pontos|Mithridates VI của Pontus]] bỏ chạy với một đội quân nhỏ từ [[Colchis]] (Georgia hiện nay) vựot qua dãy núi Caucasus tới Crimea và thực hiện kế hoạch xây dựng một đội quân để chống lại người La Mã. Con trai ông lớn tuổi nhất của ông, Machares, phó vương của Bosporos Cimmeria, đã không sẵn sàng để trợ giúp cha mình. Mithridates VI đã giết chết Machares, và Mithridates VI lên ngôi vua của Vương quốc Bosporos. Mithridates sau đó ra lệnh tiến hành cưỡng bách tòng quân và chuẩn bị cho chiến tranh. Năm 63 trước Công nguyên [[Pharnaces II]], con trai út của Mithridates VI, đã dẫn đầu một cuộc nổi loạn chống lại cha mình, có sự tham gia của những người La Mã lưu vong trong thành phần quân đội Pontos của Mithridates VI. Mithridates VI đã rút vào trong lâu đài của [[Panticapaeum]], nơi ông đã tự sát. Mithridates VI được Pompey chôn trong ngôi mộ của tổ tiên mình ở Amasia, thủ đô cũ của [[Vương quốc Pontos]].
==Vương quốc Crimea Bosporos thời La Mã==
[[Tập tin:Roman Empire.JPG|nhỏ|trái|The "Regnum Bosphoranum" during Roman emperor [[Trajan]] conquests]]
Mithridates VI đã uỷ thác vương quốc Cimmeria Bosporos cho Machares, con trai cả của ông, tuy nhiên ông ta đã bỏ theo người La Mã. Ngay cả khi bị đuổi ra khỏi vương quốc riêng của mình bởi [[Pompey]], Mithridates VI vẫn đủ mạnh để lấy lại Cimmeria Bosporos, và giết chết người con Machares của mình. Sau đó người Bosporos lại nổi dậy dưới quyền Pharnaces II. Sau cái chết của Mithridates VI (63 TCN), [[Pharnaces II của Pontos|Pharnaces II]] (63 TCN - 47 TCN) đã nộp mình cho Pompey, sau đó ông đã cố gắng để lấy lại lãnh địa của mình trong cuộc nội chiến, nhưng đã bị đánh bại bởi độc tài La Mã [[Julius Caesar|Gaius Julius Caesar]] tại Zela và ông ta sau đó bị giết bởi cựu thống đốc của ông và con rể-[[Asandros (Vua Bosporos)|Asandros]].
 
Trước khi Pharnaces II chết, Asandros đã kết hôn với Dynamis, con gái của Pharnaces II. Asandros và Dynamis đã là những vị quân vương cầm quyền cho đến khi [[Julius Caesar|Gaius Julius Caesar]], chỉ định một người chú bên nội của Dynamis, Mithridates II tuyên chiến với Vương quốc Bosporos và khẳng định vương quyền cho chính mình. Asander và Dynamis bị đánh bại bởi đồng minh của Caesar và buộc phải sống lưu vong chính trị. Tuy nhiên sau cái chết của Caesar năm 44 TCN, Vương quốc Bosporos đã được phục hồi cho Asandros và Dynamis bởi người cháu trai vĩ đại và là người thừa kế của Caesar, Octavian ([[Hoàng đế La Mã]] [[Augustus]] trong tương lai). Asandros cai trị như là một Archon và sau này là vua cho đến khi qua đời năm 17 trước Công nguyên. Sau cái chết của Asandros, Dynamis buộc phải kết hôn với một kẻ cướp ngôi La Mã gọi là Scribonius, nhưng vị chính khách La Mã [[Marcus Vipsanius Agrippa]] đẫ can thiệp và thiết lập [[Polemon I của Pontos]] (16 TCN- 8 trước Công nguyên) vào thế chỗ. Polemon kết hôn với Dynamis trong năm 16 TCN và bà qua đời trong năm 14 trước Công nguyên. Polemon làm vua cho đến khi ông mất trong năm 8 trước Công nguyên. Sau cái chết của Polemon, [[Tiberius Julius Aspurgus|Aspurgus]], con trai của Dynamis và Asandros, kế vị Polemon.
[[Hình:Panticapaeum.Prytaneion-1.jpg|nhỏ|phải|350px|Những tàn tích của [[Panticapaeum]], ngày nay là [[Kerch]], kinh đô của vương quốc Bosporos.]]
Vương quốc Bosporos của Aspurgus là một "nước chư hầu" của [[đế quốc La Mã|đế chế La Mã]]. Aspurgus (8 trước Công nguyên - 38) đã thành lập một dòng dõi các vị vua tồn tai mãi với một số thời kì gián đoạn cho đến năm 341. Aspurgus đã nhận tên La Mã Tiberius Julius "bởi vì ông được nhận quyền công dân La Mã và được hưởng sự bảo trợ của hai vị hoàng đế La Mã đầu tiên, [[Augustus]] và [[Tiberius]]. Tất cả của các vị vua sau đây đã chấp nhận hai tên La Mã theo sau là một tên thứ ba, chủ yếu là có nguồn gốc Pontos, Thracia (chẳng hạn Kotys, Rhescuporis và Rhoemetalces), nhưng cũng có nguồn gốc địa phương (chẳng hạn như Sauromates, Eupator, Ininthimeus, Pharsanzes, Synges, Terianes, Theothorses và Rhadamsades).
 
Những vị vua chư hầu này của La Mã có triều đại là hậu duệ của vua [[Mithridates VI của Pontos|Mithridates VI của Pontus]] và người vợ đầu tiên của mình, Laodice, em gái của ông, thông qua Aspurgus. Các vị vua đã chấp nhận "kỷ nguyên Pontic" được truyền bá bởi Mithridates VI, bắt đầu từ năm 297 trước Công nguyên, thời kỳ này đã sử dụng những đồng tiền có ngày tháng. Các vị vua Bosporos đã đúc tiền xu trong suốt thời kì vương quốc, trong đó bao gồm [[stater]] vàng mang chân dung của hoàng đế La Mã tương ứng. Tuy nhiên, những tiền đúc này ngày càng nhiều này đã trở nên mất giá trị trong thế kỷ thứ 3. Do đó, chúng ta biết tên và ngày tháng của họ khá tốt, mặc dù hầu như bất kỳ sự kiện nào thuộc triều đại của họ đều được ghi lại. Vương quốc của họ kiểm soát một nửa phía đông của bán đảo Crimea và bán đảo Taman, và mở rộng dọc theo bờ biển phía đông của [[đầm lầy Maeotae]] tới Tanais ở cửa của sông Don, một thị trường tuyệt vời cho thương mại với nội địa.
 
Họ đã tiến hành một cuộc chiến tranh lâu dài với các bộ lạc bản địa, và trong đó được hỗ trợ bởi bá chủ La Mã của họ, những người thậm chí hỗ trợ bằng các đơn vị đồn trú và hạm đội. Năm 63, với lý do không rõ, Hoàng đế La Mã Nero lật đổ vua Bosporos [[Cotys I]] khỏi ngai vàng của ông ta. Có lẽ Nero muốn giảm thiểu vai trò, sức mạnh và ảnh hưởng của các vị vua chư hầu địa phương và mong muốn người Bosporos phải hoàn toàn bị chi phối bởi nhà nước La Mã. Vương quốc Bosporos được thiết lập là một phần của tỉnh La Mã Hạ Moesia từ năm 63-68. Năm 68, Hoàng đế La Mã mới, [[Galba]] đã khôi phục Vương quốc Bosporos cho [[Rhescuporis I]], con trai của Cotys I.
 
==Xem thêm==
*[[Vương quốc Pontos|Vương quốc Pontus]]
*[[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]]
==Tham khảo==
* {{de icon}} Jochen Fornasier and Burkhard Böttger: ''Das Bosporanische Reich'', Mainz 2002, ISBN 3-8053-2895-8.