Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Douglas TBD Devastator”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 6:
|hãng sản xuất=[[Douglas Aircraft]]
|hãng thiết kế=
|chuyến bay đầu tiên=[[tháng tư|tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1935|1935]]
|được giới thiệu=[[Hàng không năm 1937|1937]]
|được nghỉ hưu=[[Hàng không năm 1944|1944]]
Dòng 19:
}}
 
Chiếc '''[[Douglas Aircraft Company|Douglas]] TBD Devastator''' (Kẻ Phá Hủy) là một kiểu [[máy bay ném ngư lôi]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]], đặt hàng năm [[Hàng không năm 1934|1934]], bay lần đầu năm [[Hàng không năm 1935|1935]] và đưa vào hoạt động năm [[Hàng không năm 1937|1937]]. Vào thời điểm đó, nó là chiếc máy bay tiên tiến nhất của Hải quân Hoa Kỳ và có thể là của hải quân toàn thế giới. Tuy nhiên, tốc độ phát triển máy bay đã nhanh chóng bắt kịp nó, cho đến khi [[Nhật Bản]] tấn công [[Trận chiến Trân Châu Cảng|Trân Châu Cảng]] TBD đã lỗi thời. Nó hoạt động khá trong vài trận chiến ban đầu, nhưng trong [[trận Midway]] những chiếc Devastator tham gia tấn công hạm đội Nhật gần như bị tiêu diệt toàn bộ. Kiểu này được nhanh chóng rút khỏi phục vụ ngoài mặt trận, và được thay bằng [[Grumman]] [[Grumman TBF Avenger|TBF Avenger]].
 
== Thiết kế và phát triển ==
Dòng 33:
129 chiếc kiểu này được đặt mua bởi Cơ quan Hàng không (BuAer: Bureau of Aeronautics) Hải quân Mỹ để trang bị cho các tàu sân bay [[USS Saratoga (CV-3)|''Saratoga'']], [[USS Enterprise (CV-6)|''Enterprise'']], [[USS Lexington (CV-2)|''Lexington'']], [[USS Wasp (CV-7)|''Wasp'']], [[USS Hornet (CV-8)|''Hornet'']], [[USS Yorktown (CV-5)|''Yorktown'']] và [[USS Ranger (CV-4)|''Ranger'']].
 
Hải quân Mỹ ý thức vào năm [[Hàng không năm 1940|1940]] rằng chiếc TBD đã bị các kiểu máy bay tiêm kích và ném bom các nước khác vượt qua, nên đang chuẩn bị kiểu thay thế (chiếc [[Grumman TBF Avenger|TBF Avenger]]), nhưng nó chưa đưa vào sử dụng khi [[Hoa Kỳ]] bước vào [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]]. Đến lúc đó, hao hụt trong huấn luyện đã làm giảm số máy bay chỉ còn hơn 100 chiếc. Devastator trở nên cái bẩy chết người của đội bay; bay chậm và kém cơ động, vũ khí tự vệ kém và vỏ giáp yếu so với vũ khí thời đó. Tốc độ của nó khi lướt tiếp cận thả bom chỉ khoảng 200 dặm mỗi giờ, làm nó trở nên con mồi dễ dàng cho máy bay tiêm kích và súng phòng không.
 
Hải quân Mỹ bắt đầu đặt tên thông dụng cho những máy bay của họ từ cuối năm [[Hàng không năm 1941|1941]], và TBD mang tên "Devastator".
 
== Lịch sử hoạt động ==
Những ngày đầu của chiến cuộc Thái Bình Dương, TBD làm tốt phận sự của nó trong tháng 2 và tháng 3 năm [[Hàng không năm 1942|1942]] và tại [[trận chiến biển Coral|trận chiến Biển San Hô]], trong đó Devastator giúp đánh chìm tàu sân bay [[TàuShōhō (tàu sân bay Nhật Bản Shōhō)|Shōhō]] của Nhật.
 
Những sự cố xảy ra cho kiểu ngư lôi Mark XIII vào lúc này. Nhiều trái đánh trúng mục tiêu nhưng không nổ; lại có xu hướng lặn sâu hơn độ sâu quy định. Phải mất hơn một năm để khắc phục những vấn đề này.
 
Những vấn đề trên chưa khắc phục được vào thời điểm [[trận Midway]], [[4 tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]]. 41 chiếc Devastator xuất kích từ các tàu sân bay [[USS Hornet (CV-8)|USS ''Hornet'']], [[USS Enterprise (CV-6)|USS ''Enterprise'']] và [[USS Yorktown (CV-5)|USS ''Yorktown'']] để tấn công hạm đội Nhật. Những chiếc máy bay tiêm kích hộ tống cho nó bị mất liên lạc, và TBD khởi sự tấn công mà không được bảo vệ đầy đủ. Phóng ngư lôi đòi hỏi phải bay đường bay thẳng kéo dài, làm cho máy bay trở nên chỗ yếu, cùng tốc độ bay thấp là mồi ngon cho những chiếc [[Mitsubishi A6M Zero|Mitsubishi Zero]]. Chỉ có 4 chiếc quay trở lại Enterprise, không chiếc nào quay về Hornet hay Yorktown. Tệ nhất, không trái ngư lôi nào trúng. Dù sao, sự hy sinh của chúng không vô nghĩa; những hành động tự sát anh hùng của của các đội bay Devastator hôm đó đã thu hút lực lượng tiêm kích cảnh vệ trên không Nhật ra khỏi vị trí, trong khi các tàu sân bay Nhật đang tiếp dầu và vũ khí cho máy bay ném bom, một cơ hội được khai thác bởi những chiếc máy bay ném bom bổ nhào [[Douglas SBD Dauntless|SBD Dauntless]] chỉ huy bởi Trung tá [[C. Wade McClusky]].
 
Hải quân lập tức rút TBD khỏi các đơn vị tiền tuyến sau trận Midway. Chỉ còn 39 máy bay tiếp tục phục vụ ngắn hạn tại Đại Tây Dương và trong các phi đội huấn luyện cho đến năm [[Hàng không năm 1944|1944]]. Chiếc TBD cuối cùng của Hải quân được dùng bởi Chỉ huy trưởng Không lực Hạm đội Bờ Tây, và không còn chiếc nào khi chiếc TBD của ông bị tháo bỏ vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]].<ref name="Jackson and Doll TBD-1">Jackson & Doll 1973, p. 43.</ref>. Không chiếc nào còn lại sau chiến tranh.
 
Một cách sòng phẳng, thảm họa của trận Midway phần lớn là do tính mong manh của loại máy bay ném bom/ngư lôi trước hỏa lực pháo phòng không và máy bay tiêm kích phòng ngự. Không có máy bay tiêm kích hộ tống để kìm chân Zero và thu hút pháo phòng không hạm đội, ngay cả TBF Avenger cũng chịu tổn thất nặng tương đương như vậy.
Dòng 51:
;{{USA}}
* [[Hải quân Hoa Kỳ]]
* [[Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ]]
== Đặc điểm kỹ thuật (TBD-1 Devastator) ==
[[Tập tin:VT-6TBDs.jpg|nhỏ|phải|TBD thuộc Phi Đội VT-6 trên tàu sân bay [[USS Enterprise (CV-6)|USS ''Enterprise'']], chuẩn bị cất cánh trong [[trận Midway]]]]