Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Friedrich I của Thánh chế La Mã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 62 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q79789 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 26:
| kiểu phối ngẫu = Hoàng hậu
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = Sophie <br /> Beatrice <br /> [[Friedrich V, Quận công xứ Schwaben]] <br /> [[Heinrich VI của đế quốc La Mã Thần thánh|Heinrich]] {{Vương miện}} <br /> Conrad <br /> [[Friedrich VI, Quận công xứ Schwaben]] <br /> [[Otto I, Bá tước xứ Burgundy]] <br /> [[Philipp của Schwaben|Philipp xứ Schwaben]] <br /> Cùng vài người khác
| hoàng tộc = [[Nhà Hohenstaufen]]
| father = [[Friedrich II, Quận công xứ Schwaben]]
Dòng 37:
| religion =[[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo La Mã]]
}}
'''Friedrich I Barbarossa'''<ref>Có nghĩa là ''Râu đỏ''.</ref> ([[1122]]&nbsp;– [[10 tháng 6]] năm [[1190]]) được bầu làm vua nước [[Đức]] tại [[Frankfurt am Main|Frankfurt]] vào ngày [[4 tháng 3]] năm [[1152]] và lên ngôi tại [[Aachen]] ngày [[9 tháng 3]], lên ngôi vua nước [[Ý]] tại [[Pavia]] năm 1154, và cuối cùng được [[Giáo hoàng Ađrianô IV]] phong làm [[Hoàng đế]] [[Đế quốc La Mã thầnThần thánh|La Mã Thần thánh]] vào ngày [[18 tháng 6]] năm [[1155]]. Ông lên ngôi vua xứ [[Bourgogne|Burgundy]] tại [[Arles]] ngày [[30 tháng 6]] năm [[1178]]. Người ta gọi ông là ''Barbarossa'' (có nguồn gốc từ tiếng Ý nghĩa là "râu đỏ", từ các thành phố miền bắc Ý mà ông cai trị), do ông có bộ râu màu đỏ và dài.<ref name="haaren123"/> Trong [[tiếng Đức]], ông được gọi là '''[[Kaiser]] Rotbart''', với ý nghĩa tương tự.
 
Trước khi lên ngôi, ông được quyền thừa kế đất Công tước [[Schwaben]] (1147 – 1152, với danh hiệu '''Friedrich III'''). Ông là con trai Friedrich II, Quận công xứ Schwaben, thuộc dòng dõi nhà [[Hohenstaufen]]. Mẹ ông là nữ Quận chúa Judith xứ [[Bayern]], con gái của Heinrich IX, Quận công xứ Bayern, thuộc nhà [[Welf]] đối nghịch, và như vậy ông xuất thân từ hai gia đình thế lực nhất nước Đức, khiến cho ông trở thành lựa chọn khả dĩ với các vị Tuyển hầu tước người Đức. Ông cũng là anh em họ của Heinrich Sư tử xứ Sachsen.<ref>Louise Fargo Brown,George Barr Carson, "Men and centuries of European civilization", tr. 243</ref> Trong thời gian cầm quyền ông đã vài lần ra quân trấn áp cuộc nổi dậy tại thành Milan. Tuy nhiên, ông thất bại trong cuộc chiến tranh chống người Lombard.<ref name="haaren123"/>
Dòng 44:
 
== Thời trẻ ==
Friedrich chào đời năm 1122, năm 1147 ông trở thành Quận công xứ Schwaben, rồi chỉ một thời gian ngắn sau, tháp tùng chú của mình là vua Konrad III của Đức, tiến hành cuộc [[Thập tự chinh thứ hai]]. Cuộc thập tự chinh thất bại thảm hại, nhưng Friedrich lại nổi bật lên, và giành được sự tin tưởng tuyệt đối từ người chú của mình. Khi vua Konrad qua đời vào [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1152]], chỉ có Friedrich và Giám mục [[Bamberg]] có mặt tại giường bệnh của ông, và chứng thực rằng Konrad trao vương hiệu lại cho Friedrich, để nối nghiệp mình. Friedrich Barbarossa theo đuổi ngai vàng một cách đầy nhiệt tình, và tới ngày [[4 tháng 3]], các Tuyển hầu tước bầu ông làm vua nước Đức. Ông lên ngôi tại [[Aachen]] vài ngày sau, khi đó ông 28 tuổi.<ref>Harold Joseph Berman, [http://books.google.com.vn/books?id=9-8fIBVgCQYC&pg=PA488&dq=%22Frederick+Barbarossa%22&hl=vi&ei=CX81TPH4GI_BcaOTmdQE&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=9&ved=0CEoQ6AEwCA#v=onepage&q=%22Frederick%20Barbarossa%22&f=false "Law and revolution: the formation of the Western legal tradition"], Harvard University Press, 1983, tr. 488</ref> Khi đó, có sự phân biệt giữa việc được chọn lên làm "vua người La Mã", nhưng lên ngôi tại Đức, và với việc đăng quang tại [[Roma|Rôma]], và chính thức nhận tước vị hoàng đế. Ông nhận vương miện Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh từ giáo hoàng, tại Rôma ngày 18 tháng 6 năm 1155.<ref>Le Goff, J. ''Medieval Civilization, 400-1500'', Barnes and Noble, New York, 2000, p. 266.</ref> Friedrich I là người nhà Hohenstaufen theo phía cha, và là người nhà Welf theo phía mẹ, tức là hai dòng họ hùng mạnh nhất nước Đức khi đó.
[[Tập tin:Friedrich I. Barbarossa (Christian Siedentopf, 1847).jpg|nhỏ|trái|210px|Friedrich I. Barbarossa]]
 
Dòng 53:
== Trỗi dậy ==
[[Tập tin:Armoiries empereurs Hohenstaufen.svg|nhỏ|trái|150px|Gia huy nhà Hohenstaufen]]
Mong muốn khôi phục Đế quốc trở lại thời hoàng kim dưới thời [[Charlemagne]] và [[Otto I của đế quốc La Mã Thần thánh|Otto I Đại đế]], vị tân hoàng đế nhận rõ rằng tái lập trật tự tại Đức là điều kiện tiên quyết để thiết lập vương quyền trên đất Ý. Bằng cách ra các chỉ dụ hòa bình, ông ban cho giới quí tộc nhiều nhân nhượng rộng rãi. Đối ngoại, Friedrich I can thiệp vào cuộc nội chiến tại [[Đan Mạch]] và bắt đầu đàm phán với Hoàng đế [[Đế quốc Đông La Mã|Đông La Mã]] là [[Manuel I Comnenus]]. Có lẽ cũng thời gian này, ông được phép của Giáo hoàng hủy bỏ cuộc hôn nhân của ông với [[Adelheid xứ Vohburg]], với lý do họ hàng gần (ông tổ 5 đời của ông là anh trai của bà tổ 5 đời của Adelheid). Ông tiếp đó cố gắng tiến hành một cuộc hôn nhân với triều đình [[Constantinopolis]], nhưng không thành công. Khi lên ngôi, ông báo tin cho Giáo hoàng [[Giáo hoàng Êugêniô III|Êugêniô III]], nhưng sao lãng không yêu cầu Giáo hoàng chuẩn y. [[Tháng ba|Tháng 3]] năm 1153, Friedrich ký kết hiệp ước với Giáo hoàng, theo đó để đổi lại việc chấp thuận để ông lên ngôi, ông hứa sẽ bảo vệ Giáo Hoàng, không chấp thuận hòa ước với vua Roger II xứ [[Sicilia]] hay các đối thủ khác của Giáo hội mà không có sự chấp thuận của Giáo hoàng, và giúp Giáo hoàng duy trì kiểm soát kinh thành [[Roma|Rôma]].<ref>Falco, G. ''The Holy Roman Republic'', Barnes and Co., New York, 1964, p. 218 et seq.</ref>
 
== Cai trị và chiến tranh ở Ý ==
Dòng 61:
Friedrich Barbarossa rời nước Ý vào mùa thu năm 1155 để chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh mới và còn gay go hơn nữa.
 
Tình hình hỗn loạn lúc đó lan tràn tại Đức, đặc biệt là tại xứ Bayern, nhưng hòa bình đã được vãn hồi bởi các hoạt động mạnh mẽ, nhưng có tính xoa dịu của Frederick. Đất quận công Bayern được chuyển từ tay bá tước Áo là [[Henry II Jasomirgott]], cho người bà con đáng gờm của Friedrich là Heinrich Sư tử, quận công xứ [[Sachsen]], thuộc nhà [[Guelph]], cha ông này vốn kiểm soát cả hai vùng. Henry II Jasomirgott được phong làm quận công [[Áo]], để bù lại việc mất Bayern. Với chính sách thỏa hiệp với các lực lượng chính của các thân vương Đức và chấm dứt nội chiến trong vương quốc, Friedrich ve vãn Henry của Áo bằng cách ban cho Henry chỉ dụ [[Privilegium Minus]], phong Henry từ bá tước thành quận công Áo, việc chưa từng xảy ra. Đây được xem là cột mốc quan trọng, đánh dấu việc tách Áo khỏi Bayern, mở đầu cho việc thành lập nước Áo độc lập. Đây cũng là một sự nhân nhượng lớn từ phía Friedrich, vì ông hiểu rằng ông phải hòa giải với Heinrich Sư tử, thậm chí phải chia sẻ quyền lực nếu cần. Ông không thể ra mặt đối đầu với Heinrich ngay được.<ref>Davis, R. H. C., ''A History of Medieval Europe'', Longmans, 1957, p. 319.</ref> Ngày [[9 tháng 6]] năm 1156 tại [[Würzburg]], Friedrich cưới Beatrice I, quận chúa [[Bourgogne|Burgundy]], con gái và là người thừa kế của bá tước [[Renaud III xứ Burgundy]], và như vậy thêm vào lãnh địa của mình vùng đất rộng lớn Burgundy.
 
[[Tháng sáu|Tháng 6]] năm [[1158]], Friedrich tiến hành cuộc viễn chinh Ý lần thứ hai, được hỗ trợ bởi Heinrich Sư tử và quân Sachsen của ông ta. Kết quả của cuộc viễn chinh là ông thiết lập các tướng lãnh Hoàng gia tại các thành phố bắc Ý, thành [[Milano|Milan]] nổi dậy và bị chinh phục, và ông bắt đầu cuộc đấu tranh dai dẳng với giáo hoàng [[Giáo hoàng Alexanđê III|Alexanđê III]]. Để đối lại việc ông bị rút phép thông công bởi giáo hoàng năm 1160, Friedrich tuyên bố ủng hộ địch thủ của giáo hoàng là Victor IV (1159-1164).<ref>Dahmus, J., ''The Middle Ages, A Popular History'', Doubleday & Co. Garden City, New York, 1969, p. 295.</ref> Friedrich muốn triệu tập một hội đồng cùng với vua Louis của Pháp năm 1162 để quyết định ai sẽ là giáo hoàng. Vua Louis đã đến gần nơi diễn ra hội nghị, thì biết rằng Friedrich đã dồn phiếu chống Giáo hoàng Alexanđê III, nên vua Louis quyết định không đến nữa. Kết quả là vấn đề này không được giải quyết xong khi đó.<ref>Munz, Peter. ''Frederick Barbarossa: A Study in Medieval Politics''. Cornell University Press, Ithaca and London, 1969, p. 228.</ref>
 
[[Tập tin:Hochzeit friedrich I. tiepolo.jpg|nhỏ|phải|220px|Lễ cưới giữa Friedrich và Beatrice xứ Burgundy]]
Sự tranh chấp giữa ông và Giáo hoàng Alexanđê dẫn đến kết quả là vương quốc Sicilia của các vương tôn Norman và giáo hoàng thành lập một liên minh chống lại Friedrich<ref>Davis, R. H. C., p. 326-7, ibid.</ref>. Trở về Đức vào cuối năm 1162, Friedrich ngăn ngừa sự leo thang xung đột giữa Heinrich Sư tử xứ Sachsen và một số các vương hầu lân bang, những người ngày càng tỏ ra lo ngại trước sự bành trướng thế lực, ảnh hưởng và lãnh thổ của Heinrich. Ông cũng trừng phạt dân chúng thành [[Mainz]] một cách khắc nghiệt vì tội nổi loạn chống lại Tổng giám mục Arnold. Trong cuộc viễn hành tới Ý năm 1163, kế hoạch chinh phục [[Sicilia]] của ông đổ vỡ vì một liên minh hùng mạnh đã thành lập để chống lại ông, nguyên nhân chính là để phản kháng lại việc đóng thuế cho vương quyền.
 
Friedrich sau đó quay sang tái lập hòa bình cho vùng [[Rhineland]], nơi ông tổ chức một đại tiệc mừng lễ phong thánh cho Charles Đại đế (tức [[Charlemagne]]) tại Aachen. [[Tháng mười|Tháng 10]] năm [[1166]], ông lại tiến vào Ý để hỗ trợ cho [[Giáo hoàng đối lập Pascalê IIII]], và để đăng quang cho vợ ông là Beatrice là hoàng hậu của Đế quốc La Mã thần thánh. Lần này, Heinrich Sư tử từ chối không đi Ý cùng ông, thay vào đó tập trung vào cuộc tranh giành với các lân bang và bành trướng vào lãnh thổ của người [[Người Slav|Slavơ]] ở đông bắc Đức. Quân của Friedrich đánh bại quân Rôma trong [[trận Monte Porzio]], nhưng chiến dịch này phải ngưng lại vì bệnh dịch bùng phát, đe dọa tiêu hủy quân đội Hoàng gia, khiến ông phải chạy về Đức và ở lại đó trong 6 năm tiếp đó. Trong thời gian này, Friedrich phải ra các phán quyết phân định các lãnh địa giám mục thuộc về ai, áp đặt vương quyền lên các xứ [[Čechy|Bohemia]], [[Ba Lan]], [[Hungary]], thiết lập quan hệ hữu hảo với hoàng đế Đông La Mã là [[Manuel I Comnenus]], và cải thiện mối liên lạc giữa các đối thủ [[Henry II của Anh]] và [[Louis VII của Pháp]]. Nhiều bá tước xứ Schwaben, bao gồm cả người bà con của ông là vị Quận công xứ Schwaben trẻ tuổi, Friedrich IV, chết năm 1167, khiến ông có thể tập trung các vùng đất này thành lãnh địa Quận công Schwaben, đặt dưới tay ông. Đứa con nhỏ của ông, Friedrich V, trở thành tân Quận công Schwaben.
 
== Những năm cuối đời ==
Năm 1174, vua Friedrich Barbarossa tiến hành cuộc viễn chinh Ý lần thứ năm, nhưng bị Liên minh [[Lombard]] (giờ có thêm [[Venezia]], [[Sicilia]] và [[Constantinopolis]]) theo phe giáo hoàng chống lại.<ref name="Kampers 6252b">Kampers, Franz. [http://www.newadvent.org/cathen/06252b.htm "Frederick I (Barbarossa)"]. ''The Catholic Encyclopedia''. Vol. 6. New York: Robert Appleton Company, 1909. 21 tháng 5 năm 2009.</ref> Các thành phố miền bắc Ý đã trở nên hết sức thịnh vượng nhờ thương mại, và đại diện cho một bước ngoặt trong bước chuyển từ trật tự [[phong kiến]] [[Trung Cổ]]. Khi Friedrich Barbarossa bị liên minh các thành phố bắc Ý đánh bại, cả châu Âu bị sốc vì không tưởng tượng được việc đó có thể xảy ra.<ref>Le Goff, J. ''Medieval Civilization 400-1500''. Barnes and Noble, New York, 2000, p. 104; reprint of B. Arthaud. ''La civilization de l'Occident medieval'', Paris, 1964.</ref>
 
Cùng việc Heinrich Sư tử từ chối đưa viện quân vào Ý, cuộc viễn chinh thất bại thảm hại. Friedrich Barbarossa có thể hành binh vượt miền bắc Ý, chiếm Rôma, và đưa [[Giáo hoàng đối lập Pascalê III]] lên ngôi, nhưng người Lombard nổi dậy ở sau lưng ông, trong khi bệnh dịch làm quân đội của ông bị suy yếu nghiêm trọng.<ref name="Kampers 6252b" /> Friedrich tiếp đó bị đánh bại trong trận Legnano gần [[Milano|Milan]] ngày [[29 tháng 5]] năm [[1176]]. Ông bị thương, và có lúc người ta tưởng là ông đã chết. Trận chiến này là bước ngoặt trong cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ đế quốc của ông.<ref>Davis, R. H. C., p. 332 et seq., ibid.</ref> Ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thương lượng với giáo hoàng Alexanđê III và Liên minh Lombard. Theo hòa ước Anagni 1176, Friedrich công nhận Alexanđê III là Giáo hoàng, và với hiệp ước Venezia 1177, Friedrich và Giáo hoàng Alexanđê III chính thức hòa giải.<ref>Brown, R. A., p. 164-5 "The Origins of Modern Europe", Boydell, 1972</ref> Friedrich phải chịu khuất phục trước giáo hoàng tại Venezia. Ông công nhận quyền lực của giáo hoàng tại Quốc gia Giáo hoàng (tức Rôma và vùng phụ cận), đổi lại Giáo hoàng Alexanđê III thừa nhận quyền chủ tể của Hoàng đế với Giáo hội Đế quốc. Cũng theo hòa ước Venezia, hòa bình được thiết lập với Liên minh các thành phố Lombard từ [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1178]].<ref>online in the Yale Avalon project</ref> Tiếp đó, hòa bình vĩnh viễn được thiết lập với hòa ước Constance, Friedrich thừa nhận quyền của các thành phố này được tự bầu thị trưởng thành phố. Như vậy Friedrich giành lại quyền cai trị trên danh nghĩa trên đất Ý, đó là cách chủ yếu mà ông áp đặt sức ép lên giáo hoàng<ref>Le Goff, J., ibid. p. 96-97</ref>
 
[[Tập tin:Foltz - 'Kaiser Friedrich Barbarossa und Herzog Heinrich der Löwe in Chiavenna.jpg|nhỏ|phải|230px|Barbarossa và Heinrich Sư tử]]
Friedrich Barbarossa không tha thứ cho Heinrich Sư tử vì việc không đưa quân đến hỗ trợ cho ông trong chiến dịch năm 1174. Tới năm 1180, Heinrich đã thành công trong việc thiết lập một công quốc hùng mạnh và liên tục, gồm Sachsen, Bayern và nhiều lãnh thổ rộng lớn ở miền đông và bắc Đức. Lợi dụng sự thù địch của nhiều công vương Đức với Heinrich, Friedrich Barbarossa xử vắng mặt Heinrich trong một phiên tòa chủ tọa gồm nhiều giám mục và công vương Đức năm 1180, tuyên bố rằng luật đế quốc có hiệu lực hơn luật cổ truyền Đức, xử phạt Heinrich bằng cách tước bỏ đất đai của ông này, và đặt ông này ra ngoài vòng pháp luật.<ref>Davis, R. H. C., p. 333, ibid.</ref>
 
Tiếp đó, ông đưa quân đội Đế quốc tiến đánh Sachsen. Heinrich bị các đồng minh bỏ rơi, và cuối cùng Heinrich phải chấp nhận đầu hàng vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[1181]]. Heinrich phải chịu lưu vong trong 3 năm tại triều đình cha vợ mình là [[Henry II của Anh]] tại [[Normandie|Normandy]], trước khi được phép trở lại Đức. Heinrich sống những ngày cuối đời mình tại Đức với danh vị Quận công Brunswick trong một lãnh thổ nhỏ hẹp hơn rất nhiều. Khát vọng báo thù của Friedrich như vậy đã hoàn tất, Heinrich Sư tử giờ sống một cuộc đời bình lặng, bảo trợ nghệ thuật và kiến trúc.
 
Dù đã hạ bệ được Heinrich Sư tử, Friedrich không thể nào du nhập được hệ thống phong kiến tập quyền kiểu [[Anh]] vào Đức được.<ref>Cantor, N. F., ibid. pp. 433-434.</ref> Ông phải đối diện với thực trạng hỗn loạn tại các tiểu quốc Đức, với nội chiến diễn ra liên miên giữa các công vương giành giật ngôi vị và đất đai. Sự thống nhất nước Ý dưới quyền lãnh đạo của hoàng đế Đức cũng chỉ là hư danh. Dù rằng đã tuyên bố quyền bá chủ của hoàng đế Đức, nhưng thực quyền trên đất Ý nằm trong tay giáo hoàng.<ref>Le Goff, J. ibid. pp. 102-3.</ref> Trở về Đức sau thất bại tại bắc Ý, Frederick phải ngậm bồ hòn làm ngọt, hoàn toàn kiệt lực. Các công vương Đức, thay vì phục tùng dưới trướng hoàng đế, lại thu thập của cải, quyền lực, củng cố thế lực của mình. Bắt đầu xuất hiện khuynh hướng trong xã hội nhằm "thiết lập [[Đếđế chếquốc Đức|nước Đại Đức]]" bằng cách chinh phục [[người Slav|người Slavơ]] ở phía đông.<ref>Cantor, N. F., ibid. p. 429.</ref>
 
== Thập tự chinh và cái chết ==
[[Tập tin:Gustave dore crusades death of frederick of germany.jpg|nhỏ|trái|230px|"Cái chết của Hoàng đế Friedrich I" do [[Gustav Dore]] vẽ]]
Hoàng đế Friedrich bắt tay vào chuẩn bị cho cuộc [[Thập tự chinh]] lần thứ ba (1189), một cuộc viễn chinh qui mô lớn với sự phối hợp của quân Pháp, dưới quyền chỉ huy của vua [[Philippe II của Pháp|Philippe II]] và quân Anh dưới quyền chỉ huy của vua [[Richard I của Anh|Richard I]]. Ông tổ chức một đạo quân lớn với 100.000 người (bao gồm 20 ngàn [[hiệp sĩ|hiệp sỹ]]) và hành tiến bằng đường bộ đến Đất Thánh.<ref name="Phillips66">J. Phillips, ''The Fourth Crusade and the Sack of Constantinople'', 66</ref> Tuy nhiên, một số sử gia tin rằng đây là con số phóng đại, và lực lượng viễn chinh thực tế chỉ khoảng 15 ngàn chiến binh, với khoảng 3 ngàn hiệp sỹ.<ref name="army">Konstam, ''Historical Atlas of the Crusades'', 162</ref>
 
Thập tự quân vượt qua các Vương quốc [[Hungary]], [[Serbia]] và [[Bulgaria]] rồi tiến vào lãnh thổ [[Đế quốc Đông La Mã|Đông La Mã]], đến [[Constantinopolis]] vào mùa thu năm 1189. Khi họ đến Hunary, Barbarossa thân hành mời một hoàng thân Hungary là Géza, em trai vua [[Béla III của Hungary]] tham gia cuộc Thập tự chinh, vì vậy 2.000 quân Hungary dưới sự chỉ huy của hoàng thân Géza hợp binh với quân Đức. Quân Tây Âu tiến sâu vào nội địa [[Tiểu Á]] (nơi họ giành thắng lợi và hạ được các thành [[Aksehir]], [[Konya]]), rồi tiến vào vương quốc [[Cilicia]] của người [[Armenia]]. Cuộc tiến quân của cánh quân lớn này khiến cho [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]] và các thủ lĩnh Hồi giáo khác hết sức lo lắng, và họ bắt đầu hội binh để chặn quân của Barbarossa.
 
Tuy nhiên ngày 10 tháng 6 năm 1190, Hoàng đế Friedrich Barbarossa không may bị chết tại sông [[Saleph]] khi quân Đức đang tiến về Antioch từ Armenia; các sử gia Ả rập nói rằng đạo quân này đóng trại tại bờ sông, và hoàng đế ra bờ sông để tắm thì bị dòng sông chảy xiết cuốn đi, khiến ông bị chết đuối.<ref>See, eg, Ibn Al-Athir, XII, 30-32</ref> Thập Tự quân Đức vô vàn thương tiếc ông.<ref name="haaren115"/>
Dòng 92:
Cái chết của Hoàng đế Friedrich đẩy đạo quân của ông vào tình trạng hỗn loạn. Không có chỉ huy, rối loạn, bị quân Thổ tấn công tứ phía, rất nhiều binh sỹ Đức bỏ trốn, bị giết, thậm chí tự sát. Chỉ có chừng 5.000 quân, tức là một bộ phận nhỏ của lực lượng ban đầu đến được [[Akko|Acre]]. Con trai ông, quận công Friedrich VI xứ Schwaben, tiếp tục cuộc viễn chinh với những lực lượng còn sót lại của cánh quân Đức, cùng với quân Hungary của hoàng thân Géza. Họ muốn chôn hoàng đế tại [[Jerusalem]], nhưng thi thể của ông không giữ được nguyên vẹn trong giấm, nên xác thịt của ông được chôn tại nhà thờ Thánh Phê-rô tại [[Antioch]], xương cốt của ông được chôn tại thánh đường [[Tyre (Liban)|Tyre]], trái tim và nội tạng của ông tại [[Tarsus (thành phố)|Tarsus]].
 
Cái chết bất ngờ của Friedrich khiến cho quyền lãnh đạo cuộc Thập tự chinh chỉ còn nằm trong tay các vị vua [[Philippe II của Pháp]] và [[Richard I của Anh]], mà hai người này lại đối nghịch với nhau, dẫn đến việc lực lượng Thập tự chinh bị phân tán. Quân Pháp quay trở về, chỉ còn quân Anh tiếp tục đông tiến và giao chiến với [[Ṣalāḥ ad-Dīn|Saladin]], nhưng không thực hiện được mục tiêu ban đầu của người Thiên chúa là chiếm lại Jerusalem và [[Palestine|Đất Thánh]].
 
== Truyền thuyết ==
[[Tập tin:Barbarossa01.jpg|nhỏ|trái|220px|Friedrich phái tiểu đồng ra xem bầy quạ có còn bay lượn không]]
Đương thời, Hoàng đế Friedrich I được nhân dân kính yêu, đến mức người ta truyền tụng rằng : ''"Nước Đức và Friedrich Barbarossa là một thứ nằm trong những con [[tim]] người Đức"''.<ref name="haaren115"/> Được coi là một trong những vị vua lớn nhất trong lịch sử nước Đức,<ref name="blamires"/> Friedrich I là trung tâm của rất nhiều huyền thoại, trong đó có truyền thuyết về vị vua ngự trong núi, giống như truyền thuyết cổ hơn của nước [[Anh]] về [[vua Arthur]] và [[Bendigeidfrân]]. Truyền thuyết kể rằng ông không chết, mà ngủ trong một hang động tại vùng núi [[Kyffhäuser]] tại [[Thüringen|Thuringia]], hay đỉnh [[Untersberg]] ở [[Bayern]], Đức, cùng với các hiệp sỹ của mình, và rằng bầy quạ sẽ ngừng bay xung quanh núi một khi ông thức giấc, và đưa nước Đức trở lại thời kỳ hoàng kim như xưa cũ. Theo truyền thuyết này, bộ râu đỏ của ông mọc dài tới cái bàn mà ông ngồi. Đôi mắt của ông lim dim như đang ngủ, nhưng thi thoảng ông lại phẩy tay, sai chú tiểu đồng ra xem bầy quạ đã ngưng bay chưa.<ref>Brown, R. A., p. 172, ibid.</ref> Một thuyết tương tự, bối cảnh tại Sicilia, được gán cho cháu nội ông là [[Friedrich II của đế quốc La Mã Thần thánh|Friedrich II, Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh]].<ref>[[Ernst Hartwig Kantorowicz|Kantorowicz]], ''Frederick II''; last chapter</ref> Trong thời gian diễn ra quá trình [[thống nhất nước Đức]], ông được xem là một vị [[anh hùng dân tộc]] Đức.<ref>David Ohana, David Maisel, ''The Origins of Israeli Mythology: Neither Canaanites Nor Crusaders'', trang 132</ref> Vào năm [[1871]], khi đất nước được thống nhất, [[Hoàng đế Đức|Hoàng đế]] (''[[Kaiser]]'') [[Wilhelm I của Đức|Wilhelm I]] đã đội chiếc [[Vương miện]] của Barbarossa lên đầu mình tại [[lâu đài Versailles|cung điện Versailles]] (Pháp).<ref>Edward Bellamy, Laura Bonds, ''Looking Backward by Edward Bellamy - A Utopian Novel'', trang 216</ref> Để thu thập sự ủng hộ về [[chính trị]], nền [[Đế quốc Đức|Đệ nhị Đế chế Đức]] đã cho xây dựng [[đài kỷ niệm Kyffhäuser]] trên đỉnh núi Kyffhäuser, trong đó Wilhelm I được tuyên bố là hậu thân của Friedrich I ; lễ cung hiến năm [[1896]] được tổ chức trong ngày [[18 tháng 6]], chính là ngày đăng quang của Hoàng đế Friedrich I.<ref>Jarausch, KH. “After Unity; Reconfiguring German Identities”, Berghahn Books Inc. New York, 1997, P 35, ISBN 1-57181-041-2</ref>
 
Một huyền thoại khác kể rằng khi Friedrich Barbarossa chuẩn bị đánh chiếm thành [[Milano|Milan]] năm 1158, vợ ông là hoàng hậu Beatrice bị người Milan bắt giữ, và bị dong qua thành phố trên lưng lừa để biêu riếu. Theo nguồn này, để rửa hận, ông buộc giới chức thành này phải dùng răng để lấy hạt quả sung từ hậu môn một [[Lừa|con lừa]]<ref>Walford, Edward, John Charles Cox, and George Latimer Apperson. "Digit Folklore part II". ''The Antiquary: A Magazine Devoted to the Study of the Past'' 1885 Volume XI: January-June.</ref> Một nguồn khác thì cho rằng ông buộc tất cả đàn ông trong thành phố phải ngậm phân lừa. Người ta nói rằng hình phạt này là nguồn gốc của động tác sỉ nhục đặt ngón cái giữa ngón trỏ và ngón giữa, với bàn tay nắm chặt.<ref>Novobatzky, Peter and Ammon Shea. ''Depraved and Insulting English''. Orlando: Harcourt, 2001</ref>
 
Trong một bài diễn văn tại [[Đại học Bonn]] vào ngày [[24 tháng 4]] năm [[1901]], Hoàng đế [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]] có đề cập đến những năm tháng huy hoàng của nước Đức dưới triều Barbarossa, nhưng cũng nêu lên sự thiếu đồng nhất của Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức, cuối cùng đã dẫn đến sự suy vong của Đế quốc này cũng như sự qua đi của thời kỳ vinh quang của Barbarossa.<ref>John C. G. Röhl, ''Young Wilhelm: The Kaiser's Early Life, 1859-1888'', các trang 280-281.</ref> Lãnh tụ [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]] (''[[Adolf Hitler|Führer]]'') [[Adolf Hitler]] cũng tôn vinh vua Friedrich Barbarossa như một tấm gương sáng trong [[lịch sử]].<ref name="blamires"/> [[Chiến tranh Xô-Đức|tấn công]] [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]] năm [[1941]], chiến dịch này được đặt theo tên hiệu của ông là [[Chiến dịch Barbarossa]]<ref name="VAM">Vasilevsky, Aleksandr Mikhailovich (1984), "Sự nghiệp cả cuộc đời", [[Moskva]]: NXB Tiến Bộ, tr. 567</ref>. Qua đó, Hitler thể hiện sự mong muốn vị Hoàng đế vĩ đại thời Trung Cổ này sẽ che chở cho chiến dịch ấy, và quyết định áp đặt sự bá quyền của dân tộc Đức đối với người Slavơ.<ref name="blamires">Cyprian Blamires, ''World Fascism: A Historical Encyclopedia'', Tập 1, trang 80</ref>
 
== Con cái ==
Dòng 106:
# Beatrice (1162 – 1174). Bà được hứa hôn với vua xứ Sicilia [[William II xứ Sicilia|William II]] nhưng qua đời trước khi kết hôn.
# [[Friedrich V, Công tước xứ Schwaben]] (Pavia, [[16 tháng 7]] năm 1164 – [[28 tháng 11]] năm 1170).
# [[Heinrich VI của đế quốc La Mã Thần thánh|Heinrich VI]] (Nijmegen, [[tháng mười một|tháng 11]] năm 1165 – Messina, [[28 tháng 9]] năm 1197), sau là Hoàng đế La Mã Thần thánh.
# Conrad (Modigliana, [[tháng hai|tháng 2]] năm 1167 – Acre, [[20 tháng 1]] năm 1191). Sau khi Công tước Friedrich V qua đời, ông trở thành [[Friedrich VI, Công tước xứ Schwaben]].
# Một công chúa (Gisela?) (tháng 10/tháng 11 năm 1168 – 1184).
# [[Otto I, Bá tước xứ Burgundy]] (tháng 6/tháng 7 năm 1170 – bị giết tại Besançon vào ngày [[13 tháng 1]] năm 1200).
Dòng 113:
# Renaud (tháng 10/tháng 11 năm 1173 – chết khi còn bé).
# William (tháng 6/tháng 7 1176 – chết khi còn bé).
# [[Philipp của Schwaben|Philipp xứ Schwaben]] (tháng 8 năm 1177 – bị giết tại Bamberg vào ngày [[21 tháng 6]] năm 1208), lên ngôi vua nước Đức vào năm 1198.
# Agnes (1181 – [[8 tháng 10]] năm 1184). Bà được hứa hôn với vua Hungary [[Emeric của Hungary|Emeric]] nhưng qua đời trước khi kết hôn.
 
Dòng 145:
|8= 8. Frederick von Büren, Lãnh chúa Bá tước xứ Schwaben
|9= 9. Hildegard von Egisheim
|10= 10. [[Heinrich IV của đế quốc La Mã Thần thánh|Heinrich IV, Hoàng đế La Mã Thần thánh]]
|11= 11. [[Bertha xứ Savoie]]
|12= 12. [[Welf I, Công tước xứ Bayern]]